Uyên Nguyên: “Thuyền Ngược Bến Không”, Lời Kinh Trôi Giữa Sương Mù Thời Cuộc

“Thời chiến tranh, một lớp bạn lên rừng. Thời hòa bình, một lớp bạn xuống biển. Dân tộc chợt quay trở lại với huyền thoại mở nước. Những người con theo Mẹ, đã có lúc khinh ghét anh em mình, bỏ lên rừng. Một thời gian sau, những người con theo Mẹ lên rừng nay quay trở về đô thị. Lại những người anh em khác sợ hãi, vội bỏ trốn theo, tìm về biển” – Tuệ Sỹ, Thuyền Ngược Bến Không.

Tùy bút này không viết bằng mực mà bằng máu ứa ra từ ký ức. Bài văn không phải là những câu chữ mà là tiếng kinh rì rầm nơi tận cùng tuyệt vọng. “Thuyền ngược bến không” của Thầy không còn là văn chương – mà là chứng tích. Là bản cáo trạng của một thời đại tự thiêu mình trên lưỡi đao lịch sử, rồi nằm yên như tro tàn trên mặt hồ vô minh.

Tuệ Sỹ – vị tu sĩ giữa thế kỷ, người tù giữa trăm năm, người thi sĩ làm thơ mà mỗi tiếng thở là một lời kinh, một câu niệm, một nhắc nhở oan nghiệp từ tiền kiếp – đã thả chiếc thuyền con ngược dòng nhân thế, giữa một bến không vắng ngắt. Không ai tiễn, không ai đón. Chỉ có ký ức – như bầy diều đen quấn trên đầu sợi dây định mệnh – kéo chúng ta về một miền đất không ai muốn gọi nhớ.

Ông không kể chuyện. Ông không làm thơ. Ông không viết văn. Ông chỉ lặng lẽ thả xuống mặt giấy từng mảnh vụn linh hồn bị xé rách bởi bom đạn, bởi những “mũi tên gươm giáo từ đầu thế kỷ mười chín”, bởi tiếng kinh chưa kịp tụng đã bị lấp đi bằng tiếng kèn quân nhạc của chủ nghĩa.

Những ngôi nhà bị phá tan vì chiến tranh, những người thân ra đi rồi vĩnh viễn không về, những câu hò ầu ơ chưa kịp rơi xuống bờ tre đã bị gió cuốn theo tiếng thét của một dân tộc bị ép câm… Tất cả hiện về trong “Thuyền Ngược Bến Không” như một cơn mê kéo dài 100 năm, không ai kêu tỉnh, không ai biết đang ngủ. Và Tuệ Sỹ – như một người ngang tàng và tỉnh táo nhất – dám mở mắt nhìn vào cái bóng tối đó, dám gọi tên những điều người khác quên đi như một kiểu tự cứu.

Không ai đọc Tuệ Sỹ mà không cảm thấy mình bị quật ngã. Bởi ngôn ngữ của ông không ve vuốt. Nó là dao mổ, là gươm bén, là khúc nôi của oan hồn dân tộc vừa gào khóc vừa ru ngủ chính mình. Ông nói về tình yêu mà như kể về một cuộc hành hình. Ông nhắc đến tuổi thơ mà như đang dọn xác trên cánh đồng chữ nghĩa. Cả bài viết là một cơn lũ lặng lẽ – nơi từng con chữ là những mảnh thi thể chưa được chôn cất của một nền văn hóa vừa mới bị đào mồ.

Nhưng – như một vị Bồ Tát vẫn cười giữa địa ngục – Thầy Tuệ Sỹ không kết thúc bài viết bằng một bản án. Dù có những đoạn văn đau đến mức như thể chính ông đang lột xác mình ra để viết, nhưng vẫn có một nhịp rung rất khẽ, rất mỏng – như tiếng chuông vọng lên từ đáy vực, rằng, dù chiếc thuyền có ngược dòng đến đâu, bến không vẫn là nơi trở về. Và trong bến không đó, có hạt mầm đang âm thầm nhú lên từ tro tàn.

Một dân tộc có thể bị tước mất đất đai, bị xóa tên trong lịch sử chính thống, bị tống vào lao lý của những người cầm quyền vô minh – nhưng không ai có thể tước đoạt được khả năng “trở về bến không” của mình. Bởi bến không ấy không nằm trong bản đồ. Nó nằm trong trái tim, trong nỗi đau không được phát biểu, trong những ngôn ngữ như thế này – nơi mà một người vẫn tin vào ánh sáng, dù ánh sáng đã tắt từ lâu.

Và vì vậy, “Thuyền ngược bến không” không phải là một bài viết chỉ để đọc – mà là một lối thoát để Dân tộc này sống còn, với nhau!

“Dù sao thì đất nước cũng đang hồi sinh. Những người ra đi, lần lượt kéo nhau về. Ấy thế, hờn giận giữa anh em vẫn còn là vết thương nhức nhối. Văn chương bây giờ vẫn là một lựa chọn, hoặc một nhân cách. Thi ngôn chí. Thiên cổ văn chương thiên địa tâm. Trong tận đáy sâu tâm khảm, mỗi nhà thơ vẫn chung một tình tự nghìn đời, dù biểu hiện có hận thù cay nghiệt. Tôi mong được như lời Viên Linh nói:
‘Sinh ở đâu mà giạt bốn phương
Trăm con cười nói tiếng trăm giòng
Ngày mai nếu trở về quê cũ
Hy vọng ta còn tiếng khóc chung.'”

Tháng Tư, ngày 20 năm 2025
Uyên Nguyên

Bình luận về bài viết này

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.