Huệ Đan: ‘Trang Sử Việt Cũng Là Trang Sử Phật*’ Xuyên Qua Công Trình Biên Khảo Của Thầy Lê Mạnh Thát

Tựa như khi lần giở một pho kinh cổ, lớp bụi thời gian chưa kịp rơi khỏi đầu ngón tay, ta đột nhiên thấy mình đứng giữa một miền ký ức rộng hơn lịch sử, sâu hơn văn tự. Những trang sách của một học giả tưởng như chỉ nói về Phật giáo – về những vị thiền sư, những văn bản cổ, những triều đại lồng lộng hào quang – nhưng kỳ thực lại đang mở ra cánh cửa khác, cánh cửa dẫn ta trở về với chính linh hồn dân tộc này.

Đọc toàn bộ những trước tác lịch sử – văn hóa của Thầy Lê Mạnh Thát, ta không còn cảm giác đang đi dọc theo dòng sử Phật giáo, mà như bước lặng lẽ vào một căn phòng nơi mỗi viên gạch đều biết nói, mỗi mảnh vụn của chữ đều mang theo hơi thở của bao thế kỷ thăng trầm. Ở đó, lịch sử Việt Nam hiện ra không phải như chuỗi niên đại khô lạnh, mà như một dòng tâm thức lớn đang cố gắng tự kể lại mình – kể bằng nỗi đau, bằng trí tuệ, bằng những lần đứt gãy chưa bao giờ được hàn gắn trọn vẹn.

Bấy giờ, từ miền sâu thẳm ấy, một sự thật bỗng hiện lên, không ồn ào, nhưng đủ sức làm ta cúi đầu chiêm nghiệm: dân tộc này đã từng có một mạch nguồn tư tưởng và đạo lý hùng hậu đến mức có thể đỡ nâng cả những thế kỷ bão táp, vậy mà bằng cách nào đó, trong cận – hiện đại, chúng ta đã làm phai mờ, thậm chí đánh mất chính nền tảng đã nuôi dưỡng mình. Đau đớn hơn, nhiều khi sự đánh mất ấy không phải vì hoàn cảnh ép buộc, mà vì sự lơ là, hời hợt, hoặc tệ hơn, là cố tình đoạn tuyệt khỏi những gì không còn phù hợp với chiếc áo thời đại mà ta đang cố khoác lên.

Ngày nay, giữa một xã hội rực sáng ánh đèn đô thị, rộn rã những lời tuyên bố về phát triển và hưng thịnh, cái đẹp bề mặt lại quá dễ đánh lừa cảm thức. Chúng ta khoái trá với sự “đổi mới,” nhưng ít khi hỏi đổi mới dựa trên cái gì. Chúng ta thích phô trương sự “văn minh,” nhưng không mấy khi tự hỏi nền văn minh ấy có gốc rễ ở đâu. Khi cái lấp lánh của đời sống hiện đại quá dễ làm lóa mắt, ít ai còn đủ kiên nhẫn để nhìn xem phía dưới lớp sơn mỏng kia – nơi kết cấu tinh thần của cộng đồng – đang rạn nứt đến mức nào.

Những trước tác lịch sử – văn hóa Phật giáo của Thầy, vì thế, không chỉ làm công việc hàn lâm, chúng gõ khẽ vào vỏ ngoài của hiện tại để lộ ra âm thanh rỗng bên trong. Chúng nhắc ta rằng một dân tộc không thể chỉ sống bằng những hình ảnh được trau chuốt để trưng bày. Chúng buộc ta đối diện với sự thật rằng rỗng tuếch trong tinh thần thì không quốc gia nào có thể đi xa, dù vật chất có phồn thịnh đến đâu.

Và như vậy, đọc những công trình ấy không khác gì soi vào một tấm gương lớn. Tấm gương ấy chiếu lại lịch sử, đồng thời còn phản chiếu gương mặt hôm nay của chúng ta, một gương mặt đôi khi trang điểm quá kỹ, đến mức che lấp cả vẻ ưu uẩn thật sự cần được nhìn thấy và chữa lành. Trong sự phản chiếu ấy, điều đau nhất cũng là điều cứu rỗi nhất: dân tộc này từng mạnh mẽ vì đã sống bằng trí tuệ và đạo lý; và hôm nay, con đường trở lại sức sống ấy không thể đi bằng lối đi hào nhoáng, mà chỉ có thể quay trở lại từ nền tảng cốt lõi.

Khi lần theo những công trình khảo cứu đồ sộ của Thầy Lê Mạnh Thát, ta  có cảm giác mình đang đi lạc vào một cuộc tái kiến tạo lịch sử mà ở đó, những điều tưởng như hiển nhiên bỗng lung lay, còn những gì bị quên lãng lại hiện lên với sức sống bất ngờ. Bộ Lịch sử Phật giáo Việt Nam, với những tập đã xuất bản và đang hoàn thiện, không những là một nỗ lực viết lại lịch sử Phật giáo, mà là một cách đọc mới về toàn bộ lịch sử dân tộc. Trong cách trình bày của Thầy, quá khứ Việt Nam không bắt đầu bằng những cột mốc được sách giáo khoa lựa chọn, cũng không được nhìn bằng đôi mắt của tư tưởng hiện đại áp đặt ngược lên truyền thống. Nó mở ra từ những dấu chân rất sớm của Phật giáo ở Giao Châu, Luy Lâu, Phù Nam – những trung tâm giao thương, học thuật và tôn giáo từng là nơi tiếp nhận và chuyển hóa dòng chảy văn minh Ấn Độ. Khi đặt Phật giáo vào đúng vị trí trong bối cảnh hình thành nhà nước sơ kỳ, Thầy phá vỡ định kiến rằng Phật giáo chỉ là một tôn giáo ngoại lai đến muộn; trái lại, là một trong những mạch nguồn đã góp phần hun đúc nên hình hài tinh thần của dân tộc từ thuở ban sơ.

Điều đáng nói hơn là cách Thầy đọc lịch sử không như chuỗi biến cố, mà như một cuộc vận động tư tưởng liên tục, nơi con người và các hệ thống niềm tin tác động lẫn nhau để hình thành nên văn minh Việt Nam. Trong cái nhìn ấy, Phật giáo không hề đứng ngoài xã hội, mà tham dự trực tiếp vào những thăng trầm của đất nước – từ pháp luật, hành chính, giáo dục đến đối ngoại. Các triều Lý – Trần – Lê không thể được hiểu trọn vẹn nếu bỏ qua vai trò của các thiền sư trong triều chính, trong quân sự, trong văn học và văn hóa. Đặt hai dòng lịch sử – Phật giáo và quốc sử – chồng lên nhau, ta thấy chúng giao thoa gần như trọn vẹn ở những khúc quanh quan trọng nhất. Lịch sử Việt Nam, trong ánh sáng của công trình này, không phải là lịch sử của một quốc gia đơn thuần, mà là lịch sử của một nền văn minh mà Phật giáo từng là linh hồn vận động.

Từ đây mở ra một cánh cửa dẫn đến một trục công trình khác: Toàn tập Minh Châu Hương Hải, và cùng với nó là cả thế giới các thiền sư trí thức Việt Nam qua nhiều thế kỷ. Thầy Thát không những giới thiệu tác phẩm của một thiền sư, mà dựng lại toàn bộ bối cảnh tư tưởng, đời sống, ngôn ngữ và vị trí văn hóa của những nhân vật mà lâu nay bị giản lược thành những “nhà tu hành”. Dưới ngòi bút của Thầy, Minh Châu Hương Hải hiển hiện như một trí giả đứng ở nơi giao điểm của ba truyền thống lớn: Phật – Nho – Lão. Điều này phá bỏ một ranh giới cứng nhắc trong nhận thức hiện đại vốn thường phân biệt tôn giáo, học thuật và văn hóa thành những lĩnh vực tách rời. Nhưng ở Việt Nam thế kỷ XVII, cũng như ở nhiều thế kỷ trước đó, thiền sư không chỉ giảng kinh mà còn đối thoại với triều đình, viết văn, dựng học phong và gìn giữ văn hiến dân tộc bằng con đường của trí tuệ và đạo lý.

Sự phục dựng này không chỉ gây ấn tượng bởi lượng tư liệu, mà bởi phương pháp đối chiếu Hán – Nôm – Pali – Sanskrit, soi xét lại những niên đại và văn bản đã bị hiểu lệch qua nhiều lớp trung gian, và từ đó tái hiện sự tồn tại của một tầng lớp trí thức Phật giáo Việt Nam từng sống động nhưng đã bị sử chính thống làm mờ. Những nhân vật trong Thiền Uyển Tập Anh, những sư tăng thời Lý – Trần – Lê, những nhà tư tưởng ẩn mình qua các dòng kinh kệ, đều được trả về đúng vị trí của họ, là những nhân cách mang vác nền văn hóa bằng một thứ trí tuệ không phân biệt đạo đời.

Song song với đó, bộ Tổng tập Văn học Phật giáo Việt Nam mở ra một chân trời khác nữa, văn học Việt Nam không thể giản lược thành những tác phẩm thuần thế tục, mà một mảng lớn của nó – từ thơ thiền cho đến những kiệt tác như Truyện Kiều – đều thấm đẫm tinh thần Phật học. Ở đây, văn chương không tách khỏi tuệ giác, và văn hóa Việt Nam không thể tách khỏi Phật giáo như một mạch nguồn thẩm mỹ và tư tưởng. Những vị vua thiền sư như Trần Nhân Tông hay những tác giả lịch sử – văn chương như Nguyễn Du, Lê Thánh Tông đều được đặt vào một không gian tinh thần mới, sâu hơn, rộng hơn, và cũng chân thực hơn so với cách ta vẫn học trong nhà trường.

Chuỗi công trình đó được nối dài bằng những nghiên cứu về văn hệ Bát Nhã, về thiền phái, về cấu trúc tư tưởng của Phật giáo Việt Nam trong dòng chảy lớn của văn minh Đông Á. Ở đây, ta thấy rõ mối quan tâm nhất quán, Phật giáo không chỉ thuộc về quá khứ, càng không chỉ thuộc về tự viện; Phật giáo là một nguồn lực tư tưởng có thể đóng góp trực tiếp cho quản trị, cho phát triển, cho cách một quốc gia tự tổ chức đời sống tinh thần và chính trị của mình. Nền tảng văn hóa ấy, nếu được hiểu đúng, hoàn toàn có khả năng định hình tương lai của xã hội Việt Nam trong một thế giới đang biến chuyển.

Đọc xuyên suốt những công trình ấy, người ta nhận ra rằng lịch sử không phải là chuyện đã xong. Nó là một tấm gương soi hiện tại và cũng là một ngọn đèn rọi vào vết nứt của xã hội đương thời. Khi một học giả phải lần tìm lại những văn bản bị vùi lấp, khi Thầy phải phục dựng lại những nhân vật bị quên lãng, ấy không những là công việc của giới nghiên cứu, đó là một lời nhắc nhở một dân tộc đã từng có một nền tảng trí tuệ vững vàng đến mức làm rạng rỡ cả một thời đại. Và nơi nào nền tảng ấy bị đánh mất, nơi đó hiện đại tính chỉ còn là lớp hào nhoáng dựng lên trên sự rỗng ruột tinh thần.

Chính trong sự đối chiếu đó – giữa một quá khứ đầy chiều sâu và một hiện tại đôi khi bị phô diễn quá lố – công trình văn hóa của Thầy Lê Mạnh Thát trở thành một tiếng gọi thâm trầm mà thống thiết: đã đến lúc người Việt phải soi lại chính mình. Không phải để hoài cổ, cũng không để xây thêm một huyền thoại; mà để nhận ra rằng muốn bước vào tương lai một cách vững vàng, dân tộc này phải nối lại những mạch nguồn đã bị đứt, phải hiểu lại chính nền văn minh tinh thần đã tạo nên mình. Không có điều đó, mọi nỗ lực hiện đại hóa chỉ là xây tháp trên cát, và mọi vẻ sáng sủa của thời đại mới chỉ là thứ ánh sáng phản chiếu từ một mặt gương đang dần bong tróc.

Nhờ đọc xuyên qua những bộ sử và văn tập mà công trình của Thầy Lê Mạnh Thát mở ra, ta dần nhận thấy một Việt Nam khuất sau lớp bụi của sách giáo khoa và những diễn ngôn chính trị vốn quá quen tai. Một Việt Nam từng sở hữu một cốt lõi tinh thần vững vàng đến mức có thể hóa giải cả những cơn phong ba lịch sử. Trong những trang sách ấy, hiện lên hình ảnh các triều Lý – Trần – Lê như những thí dụ sống động cho thấy Phật giáo đã sinh hoạt ngay trong trung tâm của quyền lực, chứ không chỉ trú ẩn sau mái chùa. Những thiền sư của thời đại đó bước vào triều chính không phải để tìm vinh hoa, mà để thiết lập pháp luật, để thắp sáng ý thức công lý, để gây dựng một “văn minh khoan dung” đủ rộng cho cả bạn lẫn thù được nhìn thấy mình trong đó. Họ vừa là người tu, vừa là chính khách, ngoại giao gia, thầy giáo của cả nước – những trí thức công quyền theo nghĩa đẹp nhất và sâu nhất của từ này.

Nhưng những gì còn lại trong ký ức hiện đại của chúng ta về giai đoạn ấy không nhiều. Không phải vì quá khứ kém rực rỡ, mà vì nó đã bị cắt khúc bởi vô số diễn giải mang màu sắc thời đại. Sử thuộc địa đọc Việt Nam như vùng ngoại vi của đế quốc; sử cách mạng nhìn quá khứ qua lăng kính đấu tranh giai cấp; sử quốc gia hiện đại tô vẽ những điểm sáng mà mình muốn nhấn, và lặng lẽ che đi những phần không phù hợp. Kết quả là, một lịch sử vốn giàu tầng bậc bị thu hẹp thành những câu chuyện đơn tuyến, trong đó vai trò của Phật giáo bị thu nhỏ thành “tín ngưỡng dân gian”, hoặc bị đẩy ra rìa để nhường chỗ cho các hệ tư tưởng mới nổi. Thầy Thát, khi phục dựng lại dòng chảy tư tưởng Phật giáo, đã chạm vào một điểm nhức nhối âm ỉ: chúng ta đã để cho lịch sử của mình bị điều chỉnh quá nhiều đến mức tưởng như hợp lý.

Từ thế kỷ XIX bước sang thế kỷ XX, cơn bão thực dân, chiến tranh, rồi quốc gia – dân tộc đã làm vỡ vụn truyền thống “thiền sư – trí thức – cố vấn triều chính”. Mô hình trí thức Phật giáo suốt gần một nghìn năm bỗng biến mất, như thể chưa từng tồn tại. Chùa chiền bị nhìn như những thiết chế tôn giáo thuần túy; các vị sư bị đẩy vào không gian “tâm linh”, tách khỏi vai trò văn hóa – trí thức mà tổ tiên họ từng đảm nhiệm. Khi những cơn bão lịch sử cuốn đi hết những cây cầu nối giữa trí tuệ và quyền lực, giữa đạo lý và quản trị, nhà nước hiện đại – dù ở bất kỳ chế độ nào – cũng không còn biết nói bằng ngôn ngữ của chiều sâu tinh thần. Và Phật giáo, không còn được xem như một nguồn tư tưởng để tham khảo, chỉ còn là một tiếng chuông vọng từ bên lề.

Những đứt gãy đó không chỉ là chuyện của sử học, nó là mạch đứt của một nền văn hóa. Và từ vết thương ấy, chúng ta đi vào hiện đại với một dáng vẻ kỳ lạ, bên ngoài rực sáng, bên trong mỏi mòn.

Nhìn bề mặt, Việt Nam hôm nay có tất cả những gì một quốc gia đang phát triển mong muốn, cao ốc vươn lên như lời hứa, đường sá mở rộng như giấc mơ, những lễ hội rầm rộ, những khẩu hiệu đầy âm vang về phồn vinh và tăng trưởng. Những ngôi chùa tráng lệ mọc lên nhanh hơn tốc độ suy tư về ý nghĩa của chúng; tượng lớn, cổng lớn, điện lớn khiến người ta choáng ngợp trước khi kịp đặt một câu hỏi đơn giản, đằng sau sự to lớn đó là gì?

Nhưng nếu im lặng quan sát, ta sẽ thấy một dòng chảy ngầm khác, một khủng hoảng niềm tin lan rộng, không chỉ vào thể chế, mà vào công lý, vào chính khả năng xây dựng tương lai của thế hệ trẻ. Ta thấy sự tha hóa đạo lý len vào tôn giáo như một thứ bụi mịn, những cơ sở tâm linh bị thương mại hóa, những trí thức bị đồng hóa vào guồng máy; những tiếng nói độc lập hoặc bị làm im lặng, hoặc bị bỏ quên trong chính cộng đồng của họ. Và trên nền tảng đó, một sự trầm uất tập thể hiện ra, người người mệt mỏi, chọn di cư như một lối thoát, sống trong vô cảm như một phương án an toàn, và quay về với cái tôi nhỏ bé như thể đó là vùng đất cuối cùng còn có thể bảo toàn được.

Khi đặt hiện trạng ấy bên cạnh những gì trang sử Phật giáo cho ta thấy – một thời mà thiền sư đứng ngang hàng với bậc kiến thiết quốc gia, một thời mà vua cũng là người tu, và một thời mà dân tộc hiểu mình bằng đạo lý trước khi hiểu mình bằng biên giới – ta mới thấy vì sao các trước tác của Thầy Lê Mạnh Thát nghe thì hiền nhưng thực ra sâu như một lời phản tỉnh. Không phải phê phán bằng giọng gay gắt hay tố cáo, mà bằng sự tương phản giữa cái đã từng có và cái đang biến mất.

Bởi sự thật đau lòng là chúng ta đang sống trên một di sản tinh thần lớn hơn rất nhiều so với những gì chúng ta dám nhớ. Nhưng chúng ta lại xây dựng hiện tại như thể mình không có di sản ấy – như thể quá khứ là thứ có thể cất vào tủ kính, còn đời sống tinh thần thì có thể thay bằng những thứ hàng mã hiện đại, là những khẩu hiệu ồn ào, những lễ hội rực rỡ, những cấu trúc phô diễn mà thiếu nội dung.

Chính sự tương phản đó làm nên ý nghĩa lớn nhất trong những công trình của Thầy, không phải chỉ để người đọc biết thêm lịch sử, mà để chúng ta tỉnh thức trước hiện tại. Khi một dân tộc đánh mất ký ức tinh thần của mình, nó sẽ xây dựng tương lai bằng vật liệu mong manh. Khi những mạch nguồn trí tuệ bị cắt lìa, thì mọi tòa nhà cao tầng cũng chỉ là bóng đổ của một ánh sáng thiếu gốc. Và khi xã hội chỉ quan tâm đến vẻ ngoài, nó sẽ sớm bị bào mòn từ trong chính nơi mà mắt thường không thấy, trong tâm hồn, trong đạo lý, trong khả năng cảm nhận sự thật.

Những trang sách ấy, vì thế, vừa khơi lại lịch sử; chúng khơi lại nỗi lo. Và trong nỗi lo ấy, có cả một niềm hy vọng rằng một dân tộc từng vững vàng nhờ cốt lõi tinh thần của mình, nếu chịu nhìn lại, vẫn có thể tìm thấy đường trở về với sức mạnh ấy.

Đến đây, câu hỏi không còn là “lịch sử Việt Nam đã diễn ra thế nào,” mà là người Việt hôm nay phải nhìn lại chính mình ra sao để không tiếp tục lặp lại những nhầm lẫn đã khiến một dân tộc có nền tảng văn hóa lớn lao trở nên mỏi mệt trong chính thời đại của mình. Những thông điệp thầm lặng trong các trước tác của Thầy Lê Mạnh Thát, dù không mang dáng vẻ của lời kêu gọi, vẫn gợi nên bốn hướng soi chiếu mà bất kỳ ai quan tâm đến vận mệnh dân tộc và đạo pháp cũng khó thể làm ngơ.

Trước hết, điều quan trọng nhất không nằm ở các kết luận sử học cụ thể, mà ở thái độ đối với lịch sử. Thầy Thát không những đọc lại văn bản; Thầy tháo tung những lớp diễn giải đắp lên qua nhiều thế hệ để trở về với tiếng nói ban đầu của tư liệu. Thầy đối chiếu Hán – Nôm – Pali – Sanskrit, truy lại niên đại, sẵn sàng đưa ra những kết luận đi ngược với những điều lâu nay được xem là “hiển nhiên.” Điều ấy không phải để gây chấn động học thuật, mà để chứng minh rằng lịch sử không bao giờ là một gói hàng đóng sẵn, càng không phải món đồ trưng bày để những diễn ngôn quyền lực tô điểm tùy thích. Nếu Phật giáo vốn dạy người tu không tin một điều chỉ vì người khác nói, thì người Phật tử hôm nay cũng không thể tin vào lịch sử chỉ vì nó được in trong sách giáo khoa. Muốn trung thành với tinh thần thực chứng, phải tự mình lần theo tư liệu, phải mở mắt và mở trí, phải chấp nhận vận động trí tuệ để đọc lại quá khứ thay vì nhảy múa trên những kết luận tiện lợi. Bài học ở đây không chỉ dành cho giới nghiên cứu, nó dành cho bất kỳ ai muốn nhìn thẳng vào sự thật mà không che đậy bằng thói quen.

Từ thái độ với lịch sử, một hướng thứ hai mở ra tự nhiên là trở về với cốt lõi của Phật giáo như một nếp sống trí tuệ và đạo lý, chứ không phải hình thức nghi lễ. Khi ta đọc lại các văn bản xưa, thấy các thiền sư vừa viết luận, vừa làm thơ, vừa tham gia triều chính; khi ta thấy những bậc Tăng không đứng ngoài nỗi khổ của xã hội mà đối diện trực tiếp với nó bằng tuệ giác và lòng từ, ta mới hiểu Phật giáo Việt Nam từng sống bằng chiều sâu chứ không bằng số lượng tượng đồng. Thế nhưng, trong đời sống hôm nay, tôn giáo không ít khi bị biến thành dịch vụ tâm linh, nơi người ta tìm sự an ủi nhanh, phước báu nhanh, mà quên mất rằng con đường của đạo Phật vốn không dành cho kẻ muốn đi tắt. Những ngôi chùa tráng lệ, những lễ hội rầm rộ, những pho tượng lớn hơn cả nỗi sợ của con người không thể thay thế cho tuệ giác – thứ từng làm nên sự cao đẹp của một truyền thống. Nếu cộng đồng Phật tử chỉ đẹp ở bề ngoài mà không lo đào tạo trí thức, không lo giáo dưỡng thế hệ trẻ để hiểu kinh điển, hiểu văn hóa, hiểu dân tộc, thì hình ảnh của Phật giáo sẽ chỉ góp phần khoác thêm một lớp sơn bóng bẩy lên một kết cấu xã hội đang rệu rã. Trái lại, một sự trở về đúng nghĩa – trở về với lời kinh, với văn bản, với học thuật nghiêm túc – có thể làm sống lại nguồn lực tinh thần từng đỡ nâng cả một thời đại.

Rồi từ đó, hiện lên bài học thứ ba: sự thiếu vắng một tầng lớp trí thức Phật giáo cho thời hiện đại. Việt Nam hôm nay có nhiều nhà khoa học, nhiều chuyên gia, nhưng rất ít người đứng ở giao điểm giữa trí tuệ tôn giáo và tri thức hiện đại. Trong khi quá khứ, những nhân vật xuất sắc nhất lại chính là những người đứng tại giao điểm ấy. Mô hình “tăng sĩ chỉ tu trong nội điển, cư sĩ chỉ làm Phật sự” đã trở thành một quy ước phổ biến, nhưng nó đồng thời vô tình cắt bỏ một truyền thống lâu dài, nơi thiền sư là học giả, và học giả là người dấn thân cho vận mệnh đất nước. Thầy Lê Mạnh Thát, thông thạo cả kinh điển cổ lẫn triết học hiện sinh, vừa là học giả, vừa là nhà tư tưởng, là một minh chứng cho thấy Phật giáo không phải – và chưa bao giờ – là không gian đóng. Từ đó, một câu hỏi bật lên: ai sẽ là lớp trí thức Phật giáo của thế hệ này? Ai sẽ đủ nội lực để nối quá khứ với hiện tại, để đưa đạo lý vào đời sống mà không rơi vào thuần tín ngưỡng? Đâu là những chương trình đào tạo, những trung tâm nghiên cứu, những hạt giống trẻ được nuôi dưỡng bằng cả Phật học lẫn khoa học nhân văn, bằng cả truyền thống lẫn tư tưởng toàn cầu? Nếu không dám đặt câu hỏi này, thì Phật giáo Việt Nam chỉ còn là tiếng vọng của một thời vàng son mà không thể tạo ra nền tảng minh triết cho hiện đại.

Sau cùng, tất cả dẫn về một điểm mà các công trình của Thầy Lê Mạnh Thát gợi lên bằng sự trầm lắng nhiều hơn bằng lời, đó là phải dám nhìn vào chấn thương lịch sử của dân tộc để không sống giả tạo trong hiện tại. Lịch sử Việt Nam chất chồng những mất mát, ngoại xâm, nội chiến, cải tạo, trại giam, đàn áp tôn giáo – những điều mà nhiều thế hệ được khuyên nên quên đi cho “ổn định.” Nhưng cái gì bị quên đi mà chưa được hiểu, chưa được đặt tên, sẽ không bao giờ tự biến mất. Nó lắng xuống tầng vô thức tập thể, hóa thành hoài nghi, bất tín, vô cảm; hoặc khi bị dồn nén quá lâu, nó bùng nổ thành những hình thái cực đoan khó lý giải. Phật giáo vừa là nạn nhân của những chấn thương ấy, vừa là nhân chứng. Và những trang sách mà Thầy Lê Mạnh Thát phục dựng – về những dòng tu bị mất dấu, những trí thức bị lãng quên, những giai đoạn bị cắt khỏi ký ức – chính là một hình thức trị liệu lịch sử. Thầy trả lại tiếng nói cho những gì đã bị im lặng; và trong sự trả lại ấy, ta nhận ra rằng một dân tộc chỉ có thể bước đi vững vàng nếu dám nhìn thẳng vào vết thương của mình, chứ không tiếp tục trang điểm cho nó bằng những lớp ngôn từ đẹp đẽ.

Với người Việt nói chung, bài học này mang nghĩa rất thiết thực, muốn thoát khỏi tình trạng “hào nhoáng bên ngoài, rệu rã bên trong,” phải can đảm đối diện với sự thật lịch sử, kể cả những phần không đẹp. Chỉ khi dám nhận sai, mới có thể tìm đúng. Chỉ khi dám chạm vào vùng đau, mới có thể chữa lành. Và với cộng đồng Phật tử, câu hỏi còn trực tiếp hơn, trong những chấn thương ấy, Phật giáo đã đứng ở đâu? Đã lên tiếng đủ mạnh cho sự thật và công lý chưa? Đã dấn thân như những thiền sư đời Lý – Trần chưa? Hay đã an phận bên lề, giữ sự thanh tịnh riêng tư mà quên mất tinh thần “vào đời” vốn là một phần cốt lõi của truyền thống?

Nếu muốn trung thành với sức sống của quá khứ, người Phật tử không thể chỉ ngưỡng vọng những thời vàng son. Chúng ta phải tiếp nối bằng hành động, bằng trí tuệ, bằng can đảm, bằng lòng từ bi biết vượt qua chính sự an toàn của mình. Chỉ như thế, di sản tinh thần mà ta đang đứng trên mới không trở thành một bảo tàng cổ vật, mà sẽ là mạch nước ngầm nuôi dưỡng tương lai.

Trong ý nghĩa đó, nhìn lại toàn bộ những gì công trình của Thầy Lê Mạnh Thát đã khơi mở, ta chợt hiểu rằng điều quan trọng nhất không nằm ở những phát hiện chuyên môn, cũng không nằm ở những tranh luận học thuật gay gắt quanh niên đại hay văn bản. Điều quan trọng nằm ở chỗ mỗi trang nghiên cứu của Thầy, dù khô khan đến đâu, đều là một tấm gương được đặt trước mặt chúng ta. Và khi cúi xuống nhìn, ta không chỉ thấy lịch sử –  ta thấy chính mình.

Trong tấm gương ấy, dân tộc Việt Nam không hiện lên như một thực thể vĩ đại được dựng nên bởi những khẩu hiệu rực rỡ, mà như một dòng sông dài đầy phù sa và bùn lắng, nơi những lớp ký ức tinh thần vừa nuôi dưỡng vừa đè nặng lên thân phận con người. Một dân tộc từng sở hữu một cốt lõi đạo lý đủ mạnh để chống chọi bao bấn loạn, nhưng cũng từng nhiều lần tự cắt lìa mạch sống của mình vì những ảo ảnh thời đại. Và trong dáng đứng hôm nay, cái đẹp lấp lánh của bề mặt đôi khi chỉ phản chiếu nỗi trống rỗng âm thầm bên dưới.

Bấy giờ, bài học lớn nhất từ trước tác của Thầy chính là một dân tộc muốn đi vào tương lai thật, không thể tiếp tục sống bằng những câu chuyện đã được mài giũa cho dễ nghe, cũng không thể dựng hiện tại bằng vật liệu mục ruỗng của sự lãng quên tinh thần. Không ai có thể bước đi vững vàng trên đôi chân của một quá khứ bị xén gọt, và cũng không ai có thể xây dựng niềm tin trên một nền đất mà chính mình không dám nhìn thẳng.

Người Việt – và đặc biệt là cộng đồng Phật tử Việt Nam – chỉ có thể bước ra khỏi khủng hoảng triền miên này khi dám làm ba việc tưởng đơn giản mà thực ra gian nan nhất: dám viết lại lịch sử bằng trí tuệ, nghĩa là không cúi đầu trước những phiên bản lịch sử do quyền lực biên tập; dám trở về với cốt lõi Phật học như nguồn đạo lý và minh triết, chứ không xem tôn giáo như một nhà kho cất giữ nghi lễ; và dám nhìn thẳng vào hiện tại, không tô son cho những điều đã mục, không che mùi cho những vết thương chưa kịp gọi tên.

Đó không phải là lời kêu gọi xa xỉ; đó là một công việc thầm lặng nhưng thiết yếu, giống như cách một người quét lá chùa mỗi sáng ít ai để ý, nhưng nếu thiếu nó, ngôi chùa sẽ ngập trong rác chỉ sau vài ngày.

Và chính trong nghĩa ấy, các bộ Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Toàn tập Minh Châu Hương Hải, Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam, cùng vô số khảo luận khác của Thầy, giống như những viên gạch được Thầy kiên nhẫn đặt xuống. Mỗi viên gạch là một mảnh ký ức được phục hồi, một lớp bụi bị thổi bay, một khoảng chân trời được mở lại. Công trình ấy chưa hoàn tất – và có lẽ sẽ không bao giờ hoàn tất – nhưng nó cho ta thấy rằng nếu muốn bước đi đường dài, ta phải bắt đầu từ nền móng.

Nhìn gương Thầy, không phải để tôn vinh một học giả, mà để thấy rằng trong những thời đoạn chao đảo nhất, vẫn có những con người chọn đào sâu vào cội nguồn trí tuệ, âm thầm giữ lửa cho một nền văn minh tưởng như đã ngủ quên. Và nhờ họ, chúng ta biết rằng ánh sáng không bao giờ mất hẳn, nó chỉ tạm rút vào nơi âm thầm, đợi người đủ can đảm tìm lại.

Nếu hỏi “Làm sao để Phật giáo sống lại, để dân tộc này tìm lại sức mạnh của mình?” Thì câu trả lời có lẽ không nằm trong một khẩu hiệu, mà nằm trong cách ta đọc những trang sách của Thầy – không phải như những dòng chữ, mà như một tấm gương để soi vào chính tâm mình.

Và khi nhìn đủ lâu vào tấm gương ấy, có thể ta sẽ hiểu điều cần thay đổi chưa bao giờ là lịch sử; điều cần thay đổi chính là cách ta tiếp nhận lịch sử bằng một trái tim còn rung động trước sự thật.

Phật lịch 2569 – Vô Trụ Xứ Am 8 tháng 12 năm 2025

HUỆ ĐAN

Bình luận về bài viết này

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.