Trong vô số mảnh vỡ còn văng vẳng tiếng vọng của chiến tranh, thơ Donry Nguyễn hiện lên như một vệt máu khô giữa trường ký ức – không tô điểm ước lệ, không gò bó theo mỹ cảm thông thường, chỉ một giọng chân tình mà âm ỉ như tiếng vọng của một thời chưa khép.
Ông là lính – một pháo thủ – và thơ ông không chảy từ mực, mà rỉ ra từ những mảnh pháo, từ đường rút lui nhuộm khói lửa tháng Ba, từ chiếc ba-lô còn vương bụi Dakbla, từ những ánh mắt chưa kịp khép lại giữa tiếng gầm 105 ly. Nói như vậy không phải cường điệu. Đọc Donry, sẽ có một thế hệ bỗng thấy bóng mình lẫn trong những câu thơ ông viết. Thấy bạn bè mình nằm lại ở Eo Gió, Phù Ly, Lệ Minh. Thấy hòn đạn không nổ trong ký ức, mà nổ tung trong mỗi câu thơ.
NXB Nhân Ảnh, 2025
Văn phong ông – nếu phải định danh – là một thứ thơ binh tráng đã được chưng cất từ khói thuốc, máu, nước mắt và cả những ly rượu uống dở. Có lúc, thơ như lời chửi thề đớn đau (“Đ.m. mày ẹ quá đi Em”), có lúc lại như một lời khấn nhẹ: “Thưa em, chớ trách đau lòng lính…” Ấy là khi giọng thơ lính kiêu bạc hòa điệu với một tấm lòng mềm mại như lá poncho phủ bạn mình hôm tiễn đưa.
Donry viết như không màng nghệ thuật, nhưng chính cái không màng ấy lại sinh nghệ thuật đích thực – một thứ nghệ thuật sống sót qua lửa đạn, gãy súng, tù ngục và tủi nhục, để rồi hóa thành nhân chứng. Thơ ông là một phần của sử, nhưng không phải loại sử dành cho văn khố. Đây là sử của nước mắt và niềm kiêu hãnh, sử của thua cuộc nhưng không đầu hàng.
Giữa một thời đại mà thơ đang bị xé nát thành những dòng trạng thái sáo mòn, Donry lặng lẽ đưa người đọc trở về chỗ đứng của một người lính già, châm điếu thuốc cuối ngày, và thở ra câu thơ như tiếng thở ra đời mình…
28.03.2025

Thơ chưa đọc mà cảm nhận tuyệt vời tháng tư đen sì!
ThíchThích