Uyên Nguyên: Lòng Như Muối Xát Chưa Tan! Hay đọc lại “Lý Sự Bất Dung Thông” của Thích Tâm Không

Bây giờ, bao nhiêu sự kiện như cuốn phim quay ngược, gợi nhớ biết bao nhiêu kỷ niệm. Mà đã là kỷ niệm của nửa đời người, có lẽ chắt lọc lại, chỉ chọn những gì thương quý để thấy nhẹ nhõm chứ không ôm giữ những đau buồn. Tôi nghĩ ai cũng vậy thôi. Trên khuôn mặt của mỗi người thoáng thấy những vết thời gian nghiệt ngã, vậy thì vết thương trong tâm lấy gì mà chữa lành? Tôi nghĩ chỉ có một liều thuốc duy nhất, đó là tịnh thủy cam lồ, dịu mát từ tâm.

Thuở đó có một chút Phật sự riêng với Ôn, nên lần sang Cali, trú ở chùa Quan Âm, Los Angeles, Ôn có gọi tôi lên, đúng vào giờ Ngọ nên thị giả của Ôn là vị trù trì dọn chay để dùng bữa. Ngồi ở bàn ăn chỉ có hai Thầy trò, vị thị giả thỉnh thoảng lên thêm thức ăn rồi lui vào trong. Buổi đó ngoài Phật sự riêng, Ôn có hỏi tôi suy nghĩ ra sao về các diễn biến của GHPGVNTNHN, VPII-VHĐ, đặc biệt hỏi han về trường hợp của Thầy Tuệ Sỹ, về Giáo Chỉ số 2 đã loại một số Chư Tôn Đức nòng cốt là những vị Tổng vụ trưởng các Tổng Vụ ra khỏi Giáo Hội. Thuở đó tôi biết gì, nhận xét ra làm sao thì chia sẻ phần mình hiểu biết. Nhưng thật ra thì ngay từ thời khắc khai mạc buổi lễ Tưởng niệm 30 năm Pháp Nạn và Đại Hội Thường Niên của Giáo Hội, tại chùa Diệu Pháp, Monterey Park, California, 2005, khi còn loay hoay thay đồng phục vì trước đó hai ngày tôi, đạo hữu Nguyên Bảo, anh Thị Nghĩa Trần Trung Đạo và huynh trưởng Quảng Hoàng cũng như Huệ Tâm… đã về chùa để lo phần thiết trí phòng triển lãmkhi còn loay hoay thay đồng phục vì trước đó hai ngày tôi, đạo hữu Nguyên Bảo, anh Thị Nghĩa Trần Trung Đạo và huynh trưởng Quảng Hoàng cũng như Huệ Tâm… đã về chùa để lo phần thiết trí phòng triển lãm chủ đề “30 năm Pháp Nạn” kể trên. Song, chỉ vừa nghe trên loa phóng thanh tuyên đọc Giáo Chỉ 2 một cách quá bất ngờ, thay vì đi vào trong dự lễ, tôi đi thẳng ra xe và về nhà. Sau này tôi cũng biết anh Trần Trung Đạo cũng ra về ngay lúc đó. Vậy nên tôi ít khi để ý chuyện Giáo Hội, và không biết nhiều từ dạo đó. Nếu có biết, thì cũng do nhiều sự  biến tiếp theo đã dâng lên tầm mức náo động thành phạm vi cộng đồng xã hội, nên tự đến tai mà nghe được, chứ không chủ động để biết tới, nghĩ tới nữa. Đó là giai đoạn không chỉ riêng tôi, mà nhiều anh em Phật tử cùng hoạt động nhiều năm với nhau trước đó, tan rã lần, số đông chọn cách im lặng.

Tôi còn nhớ buổi trưa hôm đó Ôn Tâm Châu không vui, nhưng trầm tỉnh, từ tốn. Ôn không phê phán điều gì mà chỉ tỏ ra tiếc nuối. Những điều Ôn hỏi han tập trung cho việc hóa giải, rồi khi cuối ngày tiễn tôi ra về, Ôn nói: “Hòa Thượng Quảng Độ nóng nảy! Tội, tôi thương cả hai (ý là thương Ôn Quảng Độ lẫn thương Thầy Tuệ Sỹ), để tìm cách nào nói với Hòa Thượng Quảng Độ.”

Chừng ít lâu sau, Ôn cho phổ biến văn thư này. Nay tôi cho đăng lại, trước là kính tưởng niệm Ôn, sau để góp thêm những chứng liệu cho đại chúng tham khảo, có thêm cơ sở mà nhìn nhận từng diễn biến lịch sử của Giáo Hội, để tránh những đồn đoán chỉ gây thêm tai hại cho tương lai Giáo Hội, cho đạo tình giữa quý Ôn và nhất là Tịnh Giới Bản Thể Tăng Già Phật Giáo Việt Nam.

TU VIỆN VIÊN QUANG
Vien-Quang Monastery
1038-1044 GALWAY LANE, CLOVER, SC 29710 – USA.
Tel: (803) 222-6629. Email : tuvienvienquang@gmail.com

TÂM THƯ NGỎ

Ngày 12 tháng 09 năm 2013

Kính gửi : Hòa-Thượng Thích-Quảng-Độ

Thưa Hòa-Thượng,

Vì nghiệp-vận của Quốc-gia và Phật-giáo, Hòa-Thượng và tôi, anh em chúng ta bị xa cách nhau 39 năm rồi. Năm nay, Hòa-Thượng đã 86 tuổi và tôi đã 93 tuổi. Trong nước Hòa-Thượng bị tù đày, ngoài nước, tôi coi như kẻ lưu đày. Hòa-Thượng và tôi đều là người thương nước, thương đạo, nhưng xa cách nhau. Trong nước, hoàn cảnh, tâm-huyết và hoạt-động của Hòa-Thượng tôi vô cùng kính-phục và thương kính. Ngoài nước, tôi cũng cố gắng đem hết tâm chân-thành của mình để phụng-sự, nhưng cũng chẳng đi đến đâu!

Tôi thương kính Hòa-Thượng Huyền-Quang cũng như Hòa-Thượng. Từ năm 2007 cho tới nay, bao nhiêu biến cố làm băng hoại tổ chức Giáo-Hội xẩy ra, tôi thầm biết có những quỷ-kế của những kẻ nằm vùng phá hoại. Đã nhiều lần tôi xin điện-thoại và gọi điện thoại cho Hòa-Thượng không được, tôi nhờ người thân với Hòa-Thượng, thưa chuyện cùng Hòa-Thượng, không hiểu có đến tai Hòa-Thượng không?

Nay biến cố không hay lại xẩy ra cho Giáo-Hội, không còn cách nào cả, tôi xin phép Hòa-Thượng, xin gửi bức tâm-thư ngỏ này tới Hòa-Thượng, Hòa-Thượng xem và tùy ý liệu định, để tâm-tư và đạo-tình của tôi đối với Hòa-Thượng không bị áy-náy:

Xét thấy việc từ chức và loại người vừa qua, chưa hẳn là do Hòa-Thượng tạo ra, nhưng nó xẩy ra với ngôi vị của Hòa-Thượng, việc này có sai lầm:

  1. Việc xét xử người phạm tội Ba-la-di, chỉ ở nơi 20 vị đại-tăng hội họp, thẩm xét và tẫn xuất trong nội bộ, không ai có quyền công khai bêu xấu cho toàn thể thế-giới biết.
  2. Việc tẫn xuất một vị tăng phạm tội do nơi Tăng-luật, không đến nỗi một vị Tăng-Thống bất lực, phải từ chức. Và, nếu vị ấy ở trong cương vị hành-chánh, dùng luật hành-chánh mà xử-trị, việc gì phải dùng đến việc từ-chức và nhận chức lại, cho tổn thương đến uy-tín cá-nhân và danh nghĩa Giáo-Hội.

Theo thiển ý của tôi, ngay thời-điểm này, Hòa-Thượng nên:

  1. Ra một tâm-thư nhận xét sự lầm lẫn trong biến cố vừa qua.
  2. Quyết tâm loại trừ những kẻ gián-điệp nằm vùng xúi giục chia rẽ, phá-hoại.
  3. Ra một Thông-bạch hóa giải những việc đã qua, mong Giáo-Hội Thống Nhất trong nước và ngoài nước hỷ-xả và sớm liên-kết trở lại.
  4. Vì sự gian lao đã lâu và sức khỏe già suy, khuyên Hòa-Thượng nên về hưu, chuyển quyền xử-lý cho Hòa-Thượng Thích-Thiện-Hạnh đảm-trách.

Trên đây là những đề-nghị phát xuất từ tâm chân thành của tôi đối với Hòa-Thượng, mong Hòa-Thượng thông cảm và quyết-định. Cầu chúc Hòa-Thượng đầy đủ sức khỏe, nghị-lực và sáng suốt, giải-quyết nan-đề này của đời.

Tâm thư,
Hòa-Thượng Thích-Tâm-Châu

Cần nói rõ, việc xét xử người phạm tội Ba-la-di trong tâm thơ trên, là trường hợp của Hòa Thượng Chánh Lạc. Mặc dù trước đó, hai lần lưu nhiệm trong Giáo Hội, ở chỗ tôi được biết qua Thầy Viên Lý kể sau này, đều do anh Võ Văn Ái sắp xếp.
Trở lại, kể từ sau Giáo chỉ số 9 ban hành, lúc cam go sóng gió đã lên tới đỉnh điểm mà trong một Thông Cáo Chung của các Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Canada, Úc Ðại Lợi – Tân Tây Lan, Âu Châu, và Cộng Đồng Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ đã nhận định: “Kể từ khi Giáo Chỉ số 9 của Viện Tăng Thống và Thông Bạch Hướng Dẫn Thi Hành Giáo Chỉ này của Viện Hóa Ðạo GHPGVNTN ban hành, Phật Giáo Việt Nam tại hải ngoại đã rơi vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng chưa từng có trong lịch sử. Nó không chỉ làm dao động, hoang mang lòng người; cũng không chỉ gây bất ổn và phân hóa trong các tổ chức sinh hoạt Phật Giáo; mà còn tạo cơ hội cho một số người và những thế lực đen tối nổi lên đánh phá nhằm triệt hạ Phật Giáo bằng mọi cách và ở mọi nơi. Nạn nhân trực tiếp của tình trạng này là chư vị Tôn Ðức Tăng Ni và các GHPGVNTN/Hải Ngoại tại các châu lục. Mặc dù vậy, hầu hết chư vị Tôn Ðức Tăng Ni và các Giáo Hội này vẫn nhẫn nhục, kiên trì với chí nguyện hoằng pháp lợi sanh, cố gắng duy trì các sinh hoạt Giáo Hội hoặc xây dựng các tổ chức sinh họat thích hợp với hoàn cảnh mới như tại Hoa Kỳ. Thế nhưng, một số người và những thế lực đen tối này vẫn tìm mọi cách gây xáo trộn trong dư luận nhằm triệt hạ đến cùng chư vị Tôn Ðức Tăng Ni và các tổ chức Phật Giáo Việt Nam hải ngoại…” Từ đó Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Liên Châu[1] ra đời, khởi sự là việc thành lập Văn Phòng Điều Hợp GHPGVNTN Liên Châu nhằm 3 mục đích:
  1. Liên kết các Giáo Hội để phục vụ nhân loại và dân tộc theo tinh thần Lời Mở Đầu của Hiến Chương GHPGVNTN đã minh định. Văn Phòng Điều Hợp[2] này được điều hành bởi hàng Giáo phẩm do bốn Giáo Hội thỉnh cử, trong tinh thần hòa hợp và bình đẳng, đúng Chánh pháp và nguyên tắc yết ma truyền thống của Tăng đoàn.
  2. Hỗ trợ và trao đổi kinh nghiệm hoằng pháp, hành đạo từ các quốc độ khác nhau để có hướng đi chung nhằm phát huy nền Phật Giáo Việt Nam nơi xứ người và mở đường cho các thế hệ kế thừa đem Phật Giáo đến với các dân tộc bản địa.
  3. Bốn Giáo Hội này vẫn giữ tính độc lập về cơ cấu tổ chức, nhân sự điều hành, pháp lý và chỉ liên đới trách nhiệm trong quan hệ bình đẳng và đồng thuận.

Bấy giờ, Giáo Hội thỉnh cử Ôn Tâm Châu lên hàng chứng Minh Đạo Sư, và Ôn đã hoan hỷ.

Tất nhiên không phải tự nhiên mà có, và tự nhiên để thành hình những tổ chức GHPGVNTN – Liên Châu vừa kể, mà phải trải qua một quá trình tôn trọng phép tắc, thưa thỉnh… nhưng bất dung thông (xem phụ bản đính kèm: Lý Sự Bất Dung Thông của Thích Tâm Không), và nguyên nhân xa gần thì không giống như cách mà trong quá khứ lẫn hiện nay, vẫn đang còn có kẻ khiên cưỡng, chống chế có chủ đích riêng khi sử dụng lại sách cũ của PTTPGQT để lèo lái quần chúng, hướng dẫn dư luận, vu khống Chư Tôn Túc Tăng nhân trong lẫn ngoài nước, nhất là luận cứ sai bậy về “Ngày Về Nguồn, Hiệp Kỵ Chư Lịch Đại Tổ Sư”[3], như là một sinh hoạt trọng điểm của Giáo Hội liên châu. Mặc dù buổi đó, cũng như bây giờ không phải là nhiều người không biết, điển hình là năm 2013, đến nổi Ôn Tâm Châu phải viết thư công khai nêu đích sự việc gởi cho Hòa Thượng Quảng Độ. Cũng vào thời gian đó, nhiều anh em cư sĩ Phật tử tuy sốt ruột xót lòng nhưng phải nhịn và nói qua tai “ném chuột sợ vỡ bình”, và rồi không làm sao ngăn cản cho được cái nạn “sư tử trùng thực sư tử nhục” ấy cho đến một ngày đâm ân hận, vì coi như là để chuột làm vỡ luôn cả bình rồi chăng!?

Giờ đây, lòng như xát muối khi ngồi sưu lục lại, phải đọc và tìm hiểu trong từng bản văn, từng văn kiện trải suốt thời gian liên quan Giáo Hội. Nhưng không thể không đọc, mà còn phải đọc kỹ hơn. Rồi nếu may mắn được sống trong cái không khí ngày đó, được đôi lần hiếm hoi ngồi trong không gian thâm tình Thầy trò chia sẻ ưu tư, tất không có gì sợ hãi, lay động trước những tàn dư mưu lậu đang diễn bày hôm nay. Rồi thì lịch sử là cái gì như chính nó là – As it is.

Giờ này, như lời dẫn ban đầu trên kia, bao nhiêu sự kiện là cuốn phim quay ngược gợi nhớ biết bao kỷ niệm vui buồn. Mà là kỷ niệm của nhiều vị gần hết một đời người, có lẽ chắt lọc lại thì chỉ chọn những gì thương quý để thấy nhẹ nhõm chứ không ôm giữ những phiền muộn nữa. Tôi nghĩ ai cũng vậy thôi cho nên tâm niệm đức Quán Thế Âm ứng biến và chữa lành những vết thương trong tâm hồn tất cả, để nhìn ra tương lai cho thế hệ con cháu Như Lai.

Nam Mô Thường Hoan Hỷ Bồ Tát Ma Ha Tát.

___________________________________________________

[1] TUYÊN BỐ CHUNG của các Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Canada, Úc Ðại Lợi – Tân Tây Lan, Âu Châu, và Cộng Đồng Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ – http://www.khanhanh.fr/menu/mnghpgvntnlc.htm
[2] THÔNG BẠCH Về việc thành lập Văn Phòng Điều Hợp GHPGVNTN Liên Châu (của các GHPGVNTN Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi-Tân Tây Lan, Âu Châu, Hoa Kỳ, Canada) – http://www.khanhanh.fr/menu/mnghpgvntnlc.htm
[3] Ý nghĩa “Ngày Về Nguồn – Lễ Hiệp Kỵ Lịch ðại Tổ Sư” – http://www.khanhanh.fr/menu/mnghpgvntnlc.htm

___________________________________________________

Phụ bản

LÝ SỰ BẤT DUNG THÔNG

 Thích Tâm Không

Khi một thiểu số cố tình phá hoại sức mạnh đoàn kết hòa hợp của Tăng đoàn, hay của tổ chức giáo hội, họ lập tức bị phản ứng mạnh bởi hầu hết Tăng Ni, thiện tri thức, trí thức và quần chúng phật-tử, khiến cho bộ mặt thật và các âm mưu tà ngụy của họ lộ rõ trên các văn bản sử liệu cũng như trên thực tế sinh hoạt.

Hãy tạm gọi các văn bản sử liệu là LÝ, và thực tế sinh hoạt là SỰ, không cần phải vay mượn tư tưởng Hoa Nghiêm thậm thâm ra đây làm gì để mang tiếng là “y kinh giải nghĩa”, khiến cho ngoại nhân ngộ nhận là Phật Pháp sai lầm, khiếm khuyết.

Ngày 08.9.2010, ông Võ Văn Ái cho ra Thông Cáo Báo Chí từ Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế để giới thiệu bài viết có tựa là “Lý Sự” của Thượng tọa Thích Viên Định.

Trên văn bản, bài viết của Thầy Viên Định không liên quan gì đến việc Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại tổ chức Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư – Ngày Về Nguồn lần IV tại Đức quốc, nên sẽ không Tăng Ni hải ngoại nào quan tâm hoặc cần thảo luận gì với Thầy. Bài viết “Lý Sự” ấy lại ký tên “Tỳ kheo Thích Viên Định” không có chức vụ đính kèm, cũng không có letterhead của Giáo Hội, thì chỉ là một bài viết của cá nhân, với văn từ luộm thuộm, không bố cục rõ rệt, thiếu lý luận và bằng chứng xác thực mà lại liên tục đưa ra kết luận, không đáng để mất thời giờ phân tích. Nhưng vì ông Võ Văn Ái đã mượn văn bản này để công kích HT. Thích Minh Tâm, với những ngôn ngữ trịch thượng, vô lễ (mà người con Phật chân chính không ai dám dùng để nói về hàng Tăng bảo), chủ đích là ngăn trở bước đi của Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại đang chuẩn bị cho Ngày Về Nguồn sắp tới, cho nên chúng tôi cũng xin trình bày đôi điều hầu làm sáng tỏ các vấn đề liên hệ.

NGÀY VỀ NGUỒN – LỄ HIỆP KỴ LỊCH ĐẠI TỔ SƯ

Trước hết, hãy nói nguyên do Lá Thư Thứ Nhất và Lá Thư Thứ Hai của HT. Thích Minh Tâm nói về Ngày Về Nguồn IV, lại có trình bày, giải thích một số sự việc của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN).

Xin nói thẳng rằng, chính vì các vị thiểu số trong Văn Phòng II Viện Hóa Đạo, trong âm mưu chia rẽ phá hoại Phật giáo Việt Nam sinh hoạt ngoài nước, đã cố tình nhập nhằng nối kết các GHPGVNTN các quốc gia và châu lục với Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại, rồi lại gộp chung với Hội Thân Hữu Già Lam, để cùng lúc chụp mũ và vu hãm những tội vạ không thực có cho các tổ chức này, khiến nhiều phật-tử hoang mang, nhiều tổ chức của cộng đồng phải nghi ngại, thậm chí gây nhiều ngộ nhận trong giới Tăng Ni để quý vị này tránh né tham dự Ngày Về Nguồn – Lễ Hiệp Kỵ Chư Tổ. Cho nên, HT. Thích Minh Tâm, nhân Ngày Về Nguồn lần thứ IV mà buộc lòng phải giải thích một số vấn đề liên quan đến GHPGVNTN cũng như đại nạn của Phật giáo Việt Nam tại hải ngoại trong những năm vừa qua.

Giải thích để chư tôn đức Tăng Ni nào không thuộc GHPGVNTN hiểu rằng Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư – Ngày Về Nguồn là ngày truyền thống của Tăng đoàn, chứ không phải của riêng bất cứ tổ chức giáo hội nào. Mọi Tăng sĩ nhớ về nguồn cội Chánh Pháp, nhớ về nguồn cội tông môn, nhớ về các bậc Tổ Đức đã truyền giáo, truyền giới để có được nền Phật Việt gần hai ngàn năm trên quê hương cũng như hải ngoại, thì đều nên tham dự Ngày Về Nguồn.

Giải thích để chư tôn đức Tăng Ni nào thuộc GHPGVNTN hiểu rằng giáo hội chỉ là một trong nhiều tổ chức Phật giáo khác ở hải ngoại, không vì sự khác biệt của tổ chức và danh xưng mà rời bỏ bản thể thanh tịnh hòa hợp của Tăng đoàn. Có nghĩa rằng, với mục đích “điều hợp các tông phái Phật giáo Việt Nam để phục vụ Nhân loại và Dân tộc bằng cách hoằng dương Chánh Pháp” (Điều 4, Mục Đích, Hiến Chương GHPGVNTN), thì thành viên GHPGVNTN phải là những sứ giả tiên phong trong việc xây dựng một Tăng đoàn hòa hợp, vững mạnh, ở bất cứ thời đại nào, xứ sở nào mà mình đang hành đạo.

Như vậy, về mặt LÝ, là thể tính thanh tịnh hòa hợp của Tăng già; về mặt SỰ, tổ chức họp mặt chung hàng năm trong Ngày Về Nguồn để cùng tưởng nhớ và nguyện báo đền ân đức của chư vị Lịch Đại Tổ Sư.

LÝ và SỰ như thế, dung thông. Tưởng không cần phải nói gì thêm về Ngày Về Nguồn lần thứ IV tại Đức quốc sắp diễn ra vào các ngày 17, 18 & 19.9.2010.

CÁC VẤN ĐỀ CỦA GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT

Hãy nói về LÝ và SỰ trên văn bản sử liệu và thực tế sinh hoạt của GHPGVNTN.

Trong mấy năm qua, kể từ khi có Giáo chỉ số 2 (29.11.2005) loại trừ và thay đổi thành phần cốt lõi của Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo trong nước, rồi đến Giáo chỉ số 9 và  Thông Bạch Hướng Dẫn Thi Hành Giáo Chỉ số 9 (08.9.2007) ra lệnh giải tán toàn bộ các giáo hội tại hải ngoại, đã có hàng trăm bài viết của chư tôn đức Tăng Ni và quý vị thức giả phật-tử vạch trần các kế sách (Lý) và hành động (Sự) của những ai dùng người Phật giáo phá hoại Phật giáo, lấy sự bưng bít thông tin do cộng sản tạo ra trong nước làm lý cớ đẻ ra các văn kiện (giáo chỉ, thông tư, quyết định…) đi ngược Hiến Chương GHPGVNTN, mượn sự tin dùng của nhị vị lãnh đạo tối cao để củng cố địa vị vô thời hạn của mình trong tổ chức giáo hội. Hàng trăm bài viết ấy trở thành những chứng liệu lịch sử hùng hồn, xác thực, bất khả phủ bác, được phổ biến đến Tăng Ni và phật-tử khắp nơi để khẳng định sự tồn tại của GHPGVNTN tại hải ngoại, cũng như để chứng minh sự đoàn kết hòa hợp của các giáo hội thuộc các quốc gia và châu lục trước âm mưu lũng đoạn, chia rẽ do các thế lực chính trị của ác đảng và ngoại đạo nhắm vào Phật giáo.

Hàng trăm bài viết ấy đã nói rất nhiều, rất rõ về Lý và Sự của nội tình GHPGVNTN trong và ngoài nước, ai cũng có thể tìm đọc trên các trang lưới Phật giáo nghiêm túc. Nhưng quý vị trong VPI và VPII VHĐ, đã giao khoán cho ông Võ Văn Ái soạn thảo các văn kiện quan trọng của giáo hội, cũng như liên tục viết những bài ngụy biện, vu cáo đa số đồng đạo khác với nhiều bút danh khác nhau, nên ngoại nhân và một số phật-tử lười suy nghĩ vẫn còn ngộ nhận về hiện tình GHPGVNTN. Do đó, những gì trình bày sau đây, không phải là để nói với ông Võ Văn Ái và quý vị trong Viện Hóa Đạo (I & II), mà để nói với những ai chưa có thời gian và cơ hội để tìm hiểu sự thực.

I. VẤN ĐỀ DANH NGHĨA

A. LÝ:

  1. Mục đích thành lập của GHPGVNTN được nêu rõ trong Hiến Chương bằng một câu duy nhất đã trích dẫn ở trước “điều hợp các tông phái Phật giáo Việt Nam để phục vụ Nhân loại và Dân tộc bằng cách hoằng dương Chánh Pháp.”
  2. Lời Mở Đầu Hiến Chương nói: “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất không đặt sự tồn tại của mình nơi nguyên vị cá biệt, mà đặt sự tồn tại ấy trong sự tồn tại của nhân loại và dân tộc.”
  3. Thông tư tối mật số 150-VHĐ/VP/TT do HT. Thích Trí Thủ, Viện trưởng Viện Hóa Đạo, ký ngày 22.01.1975, đưa ra một yêu cầu trong đoạn văn duy nhất của văn kiện (mà Thầy Viên Định không trích đủ): “Để tránh mọi ngộ nhận có thể có đối với lập trường và đường hướng cố hữu của Giáo Hội, Viện Hóa Đạo kính yêu cầu quí vị hãy thận trọng, không nên tham gia bất cứ tổ chức nào ngoài tổ chức của Giáo Hội, nhất là những tổ chức có tính cách chính trị. Trong trường hợp vị nào đã tham gia những tổ chức như thế thì hãy tự nguyện chấp trì nghiêm chỉnh tinh thần thông tư này.” (Phật Giáo Việt Nam, Biến Cố và Tư Liệu, VP Thường Trực Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTNHN-HK, trang 85)
  4. Quyết Định số 27/VPLV/VHĐ do HT. Thích Huyền Quang, Quyền Viện trưởng Viện Hóa Đạo, ký ngày 10.12.1992, đưa ra 10 điều qui chiếu và 9 điều quyết định, mà qui chiếu quan trọng là “chiếu tình hình Phật giáo Việt Nam tại hải ngoại sau 1975, hoàn toàn khác với tình hình trước 1975: nhân sự lãnh đạo và quần chúng Tăng Ni Phật tử, cần được tổ chức cho qui mô rộng rãi hơn;” từ đó dẫn đến các quyết định quan trọng là công nhận các giáo hội tại hải ngoại có địa vị như các giáo hội cấp quốc gia (điển hình ở điều 3 là GHPGVNTNHN-HK, chứ không phải chỉ là các “Chi Bộ” GHPGVNTN được qui định ở điều 36, chương 9, Hiến Chương), “mọi phật sự quan trọng của Giáo Hội đều được thống nhất ý chí của 2 Hội Đồng Giáo Hội quốc nội và 4 Hội Đồng Giáo Hội Hải Ngoại trước khi thi hành” (điều 6). Cũng từ Quyết Định số 27 này, ở phần “Bản sao kính gửi”, Viện Hóa Đạo cũng đã mặc nhiên công nhận địa vị giáo hội cấp quốc gia đối với các GHPGVNTN hiện hữu trước đó hoặc đang tiến hành thành lập cùng thời với GHPGVNTN Hải Ngoại tại Hoa Kỳ khi công văn được gửi “GHPGVNTN tại Âu Châu, Úc Châu, Canada v.v… ‘để kính thông báo và liên lạc hỗ trợ’.” (điểm này đã có nêu trong Lá Thư Thứ Hai Về Ngày Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư của HT. Thích Minh Tâm)

B. SỰ:

  1. Từ sau năm 1975, chư tôn đức Tăng Ni và quý cư sĩ nặng lòng với tiền đồ Đạo pháp và Dân tộc, khi ra nước ngoài tị nạn cộng sản, đã tự động “điều hợp các tông phái Phật giáo Việt Nam để phục vụ Nhân loại và Dân tộc bằng cách hoằng dương Chánh Pháp” theo tinh thần của Hiến Chương GHPGVNTN mà không đặt vấn đề danh xưng như thế nào, cũng không cần phải chờ đợi sự kêu gọi hay quyết định của Viện Hóa Đạo trong nước (đang bị cấm chế sinh hoạt). Nhiều tổ chức Phật giáo lần lượt ra đời với những danh xưng khác nhau nhưng cùng tâm nguyện và đường hướng là hoằng dương Chánh Pháp để phục vụ nhân loại và dân tộc. Cho đến năm 1990 thì GHPGVNTN Âu châu chính thức thành lập, sau đó là các giáo hội tại Hoa Kỳ, Gia Nã Đại và Úc châu vào năm 1992, mới thống nhất danh xưng GHPGVNTN kèm theo tên quốc gia và châu lục của mình.
  2. Cũng theo tinh thần Hiến Chương, “GHPGVNTN không đặt sự tồn tại của mình nơi cương vị cá biệt” là tuyên ngôn xác định Giáo Hội không phải là một tổ chức tập quyền, độc quyền, duy nhất của Phật giáo Việt Nam; Giáo Hội ấy được thành lập và tồn tại không phải cho chính nó mà chính vì sự tồn tại của nhân loại và dân tộc. Như thế, trong trường hợp GHPGVNTN bị bức tử bởi một thế lực nào, các thành viên của Giáo Hội có thể tùy duyên ứng hiện, hóa thân thành những tổ chức với những danh xưng khác nhau, sao cho Chánh Pháp được tiếp tục hoằng truyền lưu bố trong nhân gian. Sau năm 1975, chư tôn đức Tăng Ni rời nước hành đạo, đã tùy theo hoàn cảnh tại các quốc gia lưu cư của mình, thành lập nhiều giáo hội, tổ chức Phật giáo, mang danh xưng Thống Nhất hay không, đều không nằm ngoài bản nguyện của chư Tổ và Thánh tử đạo trong sự nghiệp hoằng dương Phật Pháp, phục vụ nhân loại và dân tộc. Thực tế cho thấy, danh xưng GHPGVNTN mặc nhiên được duy trì trong tâm khảm hoặc trên mặt pháp lý ở hải ngoại (từ những năm trước khi HT. Thích Huyền Quang chính thức công bố công cuộc vận động phục hoạt pháp lý và quyền sinh hoạt của Giáo Hội), và đồng bộ thành lập vào năm 1992, sau khi GHPGVNTN Hải Ngoại tại Hoa Kỳ được chính thức công nhận.
  3. Viện Hóa Đạo với Thông tư tối mật số 150, ban hành ngày 22.01.1975, đã yêu cầu các thành viên “hãy thận trọng, không nên tham gia các bất cứ tổ chức nào, ngoài tổ chức của Giáo Hội, nhất là những tổ chức có tính cách chính trị,” “để tránh mọi ngộ nhận đối với lập trường và đường hướng cố hữu của Giáo Hội.” Theo tinh thần này, dù còn trong nước hay đang hành đạo tại hải ngoại, chư tôn đức Tăng Ni và cư sĩ thành viên Giáo Hội đã đứng ngoài và vượt khỏi những ý thức hệ, những thế lực chính trị, đảng phái, trước mọi hoàn cảnh, thời cuộc. Lập trường và đường hướng cố hữu của Giáo Hội là gì? Nói theo Hiến Chương GHPGVNTN, đó là “phục vụ nhân loại và dân tộc bằng các hoằng dương Chánh Pháp”; nói theo bản nguyện của sứ giả Như Lai, thì đó là “thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh.” Như vậy, công cuộc vận động do HT. Thích Huyền Quang khởi xướng năm 1991, không phải là phục hoạt hay thành lập một tổ chức chính trị Phật giáo, mà chỉ nhằm phục hoạt một giáo hội truyền thống, lấy trí tuệ làm sự nghiệp, lấy việc hoằng pháp lợi sanh làm lý tưởng nhập thế; Giáo Hội ấy, nếu cần lên tiếng trước những bất công, phi lý của các chế độ chính trị thì đó là tiếng nói của từ bi và trí tuệ cho sự phúc lạc và nguyện vọng chung của dân tộc, chứ không phải vì lợi ích cá biệt của Giáo Hội hay của Phật giáo. Các thành viên chân chính của GHPGVNTN, tăng sĩ hay cư sĩ, thì không tham gia các tổ chức đảng phái chính trị thế tục; ai không tuân thủ đường hướng cố hữu này, sẽ trở thành ngoại nhân của Giáo Hội.
  4. Quyết Định số 27 do HT. Thích Huyền Quang, ký ngày 10.12.1992 là quyết định vô cùng trí tuệ và dân chủ, nhằm mở rộng phạm vi hoạt động của Giáo Hội, nâng các Bộ/Chi Bộ lên tầm cỡ quốc gia, đưa ra vấn đề “thống nhất ý chí” giữa các hội đồng trong nước và hải ngoại trước những quyết định quan trọng để tránh nạn trung ương tập quyền (dù lúc đó ngài đang là Quyền Viện trưởng Viện Hóa Đạo), phòng ngừa âm mưu lũng đoạn Giáo Hội có thể đến từ bên ngoài hoặc nẩy sinh từ bên trong. Nếu Giáo Hội trong nước bị cộng sản bức tử, bốn giáo hội thuộc Âu châu, Úc châu, Hoa Kỳ và Canada vẫn độc lập tồn tại và tiếp tục phối hợp, hỗ trợ nhau để hoằng dương Chánh Pháp. Quyết Định 27 này đã một bước thật nhanh, tạo sự bền chặt gắn bó giữa Giáo Hội trong nước và các Giáo Hội ngoài nước. Trong khi đa phần Tăng Ni và cư sĩ thuộc các GHPGVNTN tại hải ngoại đều hết lòng tán dương và ghi nhận Quyết Định lịch sử này thì cộng sản và các thế lực phi-Phật-giáo muốn hủy bỏ, phá hoại.

Thông qua 4 điểm LÝ và SỰ về vấn đề Danh Nghĩa ở trên, thức giả đều nhận ra rằng việc duy trì và bảo vệ danh xưng GHPGVNTN tuy rất quan trọng, nhưng quan trọng nhất vẫn là: phải phục hoạt và trùng hưng một giáo hội có thực chất, có nội lực, có thể gánh vác trọng nhiệm của tiền nhân dù ở bất cứ hoàn cảnh khó khăn hay thuận lợi nào. Cho nên, không có chính danh hay tiếm danh đối với những người con cùng sinh từ một cha một mẹ. Cha mẹ ở đây là ai? – Trên chứng liệu lịch sử cụ thể thì là những vị đã thành lập GHPGVNTN năm 1964, thông qua bản Hiến Chương do HT. Thích Trí Quang chấp bút. Nhìn xa hơn, cha mẹ là chư vị lịch đại Tổ Sư của hai ngàn năm Phật Việt.

Nhưng nếu cần phải làm sáng tỏ vấn đề chính danh trong Phật giáo, hay đối với tinh thần vô ngã “không đặt sự tồn tại trên nguyên vị cá biệt” của Hiến Chương GHPGVNTN mà nói, thì ôm làm gì cái danh xưng của Giáo Hội nếu tự thân mình bất xứng. Làm ô danh Giáo Hội bởi tham vọng, tư kỷ, phá giới, chính là tiếm danh. Phá hoại sự đoàn kết hòa hợp của Giáo Hội và Tăng đoàn, chính là tiếm danh. Lạm dùng địa vị lãnh đạo mà ban hành các văn kiện phi dân chủ, trái yết-ma tăng, chính là tiếm danh. Ăn lương, làm việc cho các tổ chức chính trị thế tục mà lại tìm cách nắm giữ các chức vụ then chốt của Giáo Hội, đó là tiếm danh.

II. VẤN ĐỀ PHÁ HOẠI PHẬT GIÁO

A. LÝ:

  1. Ai, thế lực nào muốn phá hoại, tiêu diệt Phật giáo (tiêu biểu là GHPGVNTN)? – Ác đảng, ngoại đạo. Ở đây không muốn đề cập ngoại đạo, chỉ nói ác đảng là các thế lực chính trị, không riêng gì cộng sản, nhưng trước mắt là cộng sản. Tại sao cộng sản muốn phá hoại Phật giáo? – Vì Phật giáo nắm được đa số quần chúng.
  2. Cộng sản đã phá hoại GHPGVNTN trong nước cũng như tại hải ngoại từ sau năm 1975 như thế nào? – Theo những bài học từ quá khứ, có thể tạm cho là họ đã tiến hành theo trình tự sau đây: xóa tên, sát nhập, quản thúc, bức tử, bao vây, loại trừ, giải tán, chia rẽ.
  3. Cộng sản sợ gì nơi GHPGVNTN? – a) Lãnh đạo tài đức, uy tín. b) Sự đoàn kết, hòa hợp.

B. SỰ:

  1. Tăng Ni và phật-tử chân chính không bao giờ có ý phá hoại hay tiêu diệt Phật giáo. Chỉ có một số phần tử của ác đảng (hoặc ngoại đạo) xâm nhập vào hàng ngũ lãnh đạo Phật giáo để thực hiện mục tiêu chính trị của họ. Những năm vừa qua, đa số Tăng Ni và cư sĩ đều thấy rõ điều này. Họ không vu khống, chụp mũ cộng sản cho đồng đạo của họ, mà chỉ cảnh giác về sự xâm nhập của ngoại nhân cũng như sự tha hóa của một vài cá nhân trong nội bộ Phật giáo. Trong khi đó, một thiểu số cá nhân, nhân danh các chức vụ then chốt của Giáo Hội, và nhân danh ý hướng chống Cộng của cộng đồng tị nạn, đã cố tình gieo rắc nhãn hiệu cộng sản một cách bừa bãi và vô ý thức, vô trách nhiệm, lên cả cộng đồng Tăng Ni và cư sĩ khắp các quốc gia chỉ vì những vị này không cùng quan điểm, hoặc bị xem là những người ngăn trở con đường tiến thân cho danh vọng, địa vị của họ. Vô tình, thiểu số cá nhân này lại đồng lõa với cộng sản trong sự phá hoại Phật giáo, tiêu diệt Giáo Hội.
  2. Năm 1975, sau khi toàn chiếm lãnh thổ Việt Nam, cộng sản đã lập tức tiến hành việc xóa tên GHPGVNTN vì cho rằng đây là một tổ chức vững mạnh, chặt chẽ, có được quần chúng từ trung ương đến hạ tầng cơ sở, rất nguy hiểm cho sự tồn tại của chế độ.

Không thể công khai xóa tên hay khai tử GHPGVNTN, cộng sản đã thuyết phục hoặc bức ép một số vị lãnh đạo GHPGVNTN, đứng ra vận động và thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (GHPGVN) trong hệ thống Mặt Trận Tổ Quốc vào năm 1981. Đây là hình thức sát nhập tinh vi không súng đạn, nhưng cũng không thành công, vì hai lẽ:

  1. Lãnh đạo GHPGVNTN, đứng đầu là HT. Thích Trí Thủ, đã không nhân danh Viện trưởng Viện Hóa Đạo kiêm Phụ tá đặc biệt Đức Đệ Nhị Tăng Thống (tương đương Xử lý Thường Vụ Viện Tăng Thống) để ra Giáo chỉ, Thông tư hay bất kỳ văn kiện nào của GHPGVNTN để sát nhập giáo hội cũ vào giáo hội mới; sự tuân thủ Hiến chương và Nội qui GHPGVNTN cũng như tinh thần dân chủ của HT. Thích Trí Thủ đã bảo vệ pháp lý của GHPGVNTN để về sau, Đại lão Hòa thượng Thích Đôn Hậu và HT. Thích Huyền Quang mới có lý do để khởi xướng việc phục hoạt GHPGVNTN.
  2. Hai vị lãnh đạo tiêu biểu khác là HT. Thích Huyền Quang và HT. Thích Quảng Độ, đã cương quyết không chịu từ bỏ GHPGVNTN, cũng không chịu sát nhập hoặc tham gia GHPGVN của Mặt Trận Tổ Quốc.

Từ hai lẽ trên, cộng sản quản thúc và lưu đày nhị vị Hòa thượng này ra Quảng Ngãi và Thái Bình vào năm 1982; và sau đó không lâu, năm 1984, bức tử HT. Thích Trí Thủ.

Khi HT. Thích Huyền Quang khởi xướng công cuộc phục hoạt GHPGVNTN năm 1992, tái lập dần dần cơ cấu Hội đồng Lưỡng viện, kết hợp chặt chẽ với các giáo hội ngoài nước, cộng sản liền tìm cách đưa người vào GHPGVNTN hoặc móc nối với vài nhân sự nhiều tham vọng, hoặc có tì vết, để chờ thời cơ lũng đoạn, phá nát giáo hội này.

Nhưng với sự kiên cường của nhị vị Hòa thượng lãnh đạo GHPGVNTN, cộng sản biết là khó lòng thay đổi hoặc dập tắt ý chí đấu tranh của quý ngài, đã quay sang phương cách bao vây chặt chẽ, khống chế mọi sinh hoạt và sự đi lại của các ngài, chờ đợi cơn vô thường đến, với tuổi già sức yếu, bệnh hoạn, nhị vị Hòa thượng sẽ nằm xuống, khép lại trang sử của GHPGVNTN.

Thế nhưng, bất ngờ vào năm 2003, GHPGVNTN tổ chức Đại Hội Bất Thường tại Tu viện Nguyên Thiều để kiện toàn Hội đồng Lưỡng viện, qua đó đã bổ sung một số nhân sự nòng cốt và tài đức của các thế hệ kế thừa. Qua danh sách các tăng tài này, cộng sản bén nhạy nhìn ra tinh hoa và tiềm lực của GHPGVNTN vẫn tiếp tục phát tiết và bừng dậy sau khi nhị vị Hòa thượng lãnh đạo nằm xuống, liền tìm cách thanh lọc, loại trừ họ. “Ngẫu nhiên” thay, Giáo Hội ban hành Giáo chỉ số 2 (ký ngày 29.11.2005), xóa tên 6 vị lãnh đạo cao cấp trong Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo là TT. Thích Tuệ Sỹ (Phó Viện trưởng), TT. Thích Đức Thắng (Tổng Thư Ký), TT. Thích Quảng Hạnh (Tổng vụ trưởng Tổng vụ Tăng Sự), TT. Thích Thái Hòa (Tổng vụ trưởng Tổng vụ Hoằng Pháp), TT. Thích Phước Viên (Tổng vụ trưởng Tổng vụ Giáo Dục), TT. Thích Thanh Huyền (Tổng vụ trưởng Tổng vụ Thanh Niên); một vị Tổng vụ trưởng khác đã từ chức khi thấy các vị trên bị loại trừ, đó là TT. Thích Phước An (Tổng vụ trưởng Tổng vụ Văn Hóa). Chưa đầy hai năm phục vụ, 7 vị lãnh đạo tài đức này đã bị loại trừ, để lại một lỗ hổng lớn trong lòng Tăng Ni và cư sĩ trong nước lẫn hải ngoại. GHPGVNTN như con bệnh mới vừa gượng dậy thì lại quị ngã vì cơn sốt nội tạng. Nhân sự GHPGVNTN trong nước sau Giáo chỉ số 2, ngoại trừ HT. Thích Huyền Quang và HT. Thích Quảng Độ ra, còn lại đều là những vị hạng trung. Cộng sản không lo ngại thành phần nhân sự của GHPGVNTN trong nước nữa, vì nhị vị Hòa thượng lãnh đạo thì bệnh hoạn, già yếu, còn những vị trẻ hơn thì vô năng vô đức. Họ chỉ cần nhẫn nại chờ đợi Văn Phòng I Viện Hóa Đạo tự diệt.

Nhưng chính vì Giáo chỉ số 2 loại trừ nhân sự nòng cốt của Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo trong nước, đã khiến cho đa số Tăng Ni và cư sĩ thuộc GHPGVNTN hải ngoại cảnh giác cao độ về sự tiếp tay của một vài cá nhân trong nội bộ Giáo Hội cho âm mưu phá hoại của cộng sản. Các vị này đã bắt đầu lên tiếng, đầu tiên bằng Thỉnh Nguyện Thư của GHPGVNTN Hải Ngoại tại Canada ký ngày 01.01.2006, đệ trình HT. Thích Quảng Độ, tiếp theo là những bài viết từ nhiều Tăng Ni và cư sĩ khác ở nhiều quốc gia và châu lục, đặt vấn đề phi pháp, phi lý và phi dân chủ của Giáo chỉ ban hành từ lãnh đạo tối cao của Giáo Hội.

Qua phản ứng mạnh mẽ từ Tăng Ni và cư sĩ hải ngoại, cộng sản biết rằng nếu chờ đợi GHPGVNTN trong nước tự diệt thì Giáo Hội này vẫn còn vững mạnh tại hải ngoại, không thể nào hoàn toàn triệt tiêu được. Cộng sản liền xoay qua đối phó với các GHPGVNTN hải ngoại, tìm cách giải tán hoặc vô hiệu hóa các Giáo Hội hiện hữu. “Trùng hợp” thay, Giáo Hội ban hành Giáo chỉ số 9, và Thông bạch Hướng dẫn Thi hành Giáo chỉ số 9, ký ngày 08.9.2007 ra lệnh giải tán toàn bộ các GHPGVNTN tại hải ngoại!

Điều mà cộng sản không thể ngờ tới là Giáo chỉ số 9 và Thông Bạch Hướng Dẫn này đã không được Tăng Ni và cư sĩ hải ngoại nhất dạ khâm tuân hoặc nhẫn nhục đón nhận. Cộng sản vọng tưởng rằng Giáo chỉ của GHPGVNTN giống như một chiếu chỉ của vua chúa thời đại quân chủ, một khi ban hành thì toàn dân phải cúi đầu chịu mệnh; hay như mật lệnh của Tổng bí thư Đảng, tất cả đảng viên phải răm rắp nghe theo! Họ lầm! Trong Phật giáo hay trong tổ chức Giáo Hội, từ ngàn xưa, chưa từng có vấn đề trung ương tập quyền như vậy. Một tập thể Giáo Hội còn “không đặt sự tồn tại nơi nguyên vị cá biệt” của nó thì làm gì có một cá nhân, hai cá nhân có thể nhân danh lãnh đạo tối cao mà ban hành những điều luật hay văn kiện trái Hiến chương, phạm Nội qui, phi pháp, phi dân chủ! 104 thành viên Tăng Ni và cư sĩ thuộc bốn GHPGVNTN tại Âu châu, Úc châu, Hoa Kỳ và Canada vào ngày 09.9.2008 đã cùng ký tên vào bản Tuyên Bố Chung để khẳng định sự tồn tại độc lập của họ trên danh nghĩa và lập trường nhất quán của GHPGVNTN. Cũng qua Tuyên Bố Chung, các GHPGVNTN hải ngoại cho thấy sự đoàn kết hòa hợp của họ khi đạo pháp lâm nguy. Chính sự kiện này đã làm cho cộng sản chưng hửng, nhưng vẫn quyết tâm giải tán, triệt hạ các Giáo Hội hải ngoại. Lại “trùng hợp” thay, tiếp đó, đã có Thông bạch 31 của Viện Hóa Đạo, không công nhận bốn GHPGVNTN hải ngoại, và cũng từ đó, xuất hiện từ ngữ “tiếm danh” trên các diễn đàn chính trị phá hoại Phật giáo. Đây là kế sách ly gián, chia rẽ mà cộng sản từng dùng để phá hoại các tổ chức ngoài đảng, dù là tổ chức chính trị hay tôn giáo. Họ đã và đang dùng kế sách này để phân hóa hàng ngũ Phật giáo hải ngoại qua một vài tổ chức ngoại vi, lấy danh nghĩa bảo vệ hoặc chấn hưng Phật giáo, kỳ thực là gây chia rẽ, nghi kỵ và xáo trộn trong sinh hoạt Phật giáo.

  1. Cộng sản sợ gì nơi GHPGVNTN? Trong nước, Văn Phòng I Viện Hóa Đạo: lãnh đạo tài đức, uy tín, xứng danh nhất như Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang thì đã viên tịch; kiên cường, dũng mãnh và nổi tiếng một thời như HT. Thích Quảng Độ thì cũng đã sụp đổ trong lòng Tăng Ni phật-tử khắp nơi; những tinh hoa như TT. Thích Tuệ Sỹ, Thích Quảng Hạnh, Thích Phước An, Thích Đức Thắng v.v… thì đã bị loại trừ; các vị còn lại trong Viện Hóa Đạo chỉ là những vị hữu dõng vô mưu, không có khả năng điều hành Giáo Hội mà chỉ biết tuân hành theo lệnh trên hoặc lệnh từ phương xa hải ngoại. Ngoài nước, Văn Phòng II VHĐ: cá nhân kiệt xuất không có, chỉ có vài vị có tài mà không tâm, vài vị có tâm mà bất tài. Nhìn vào nội tình GHPGVNTN từ trong nước ra hải ngoại như vậy, cộng sản không còn gì để lo sợ. Họ chỉ sợ sự đoàn kết hòa hợp của bốn GHPGVNTN hải ngoại. Đây là lý do có sự liên tục đánh phá, bôi nhọ, mạ lỵ, chụp mũ cộng sản cho những người tài đức, phỉ báng từng cá nhân hoặc tập thể Tăng Ni suốt những năm qua. Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại với Ngày Về Nguồn – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư cũng bị vạ lây trong chiều hướng phá hoại, chia rẽ này.

Điểm qua hai điều LÝ và SỰ về vấn đề Phá hoại Phật giáo ở trên không có nghĩa là kết luận hay xác định Giáo chỉ số 2, Giáo chỉ số 9, Thông Bạch Hướng dẫn Thi hành Giáo chỉ số 9, Thông bạch 31 (về sự tiếm danh)… do cộng sản chính thức đưa ra. Nhưng cứ xét theo mục tiêu và kế sách triệt hạ Phật giáo của cộng sản mà nói, ai cũng thấy các văn kiện hành chánh của Văn Phòng I và Văn Phòng II Viện Hóa Đạo, cũng như các bài viết ly gián, nhục mạ Tăng Ni trên các diễn đàn chính trị từ những năm gần đây, đều trùng hợp với những gì cộng sản muốn làm mà không làm được.

Cộng sản muốn loại trừ các tinh hoa Phật giáo chuẩn bị kế thừa sự nghiệp của HT. Thích Huyền Quang và HT. Thích Quảng Độ thì Giáo Hội cung ứng Giáo chỉ số 2 (ngày 29.11.2005).

Cộng sản muốn giải tán các GHPGVNTN hải ngoại vì các giáo hội này đang ngồi lại, đoàn kết với nhau, thì Giáo Hội cung ứng Giáo chỉ số 9 (ngày 08.9.2007).

Cộng sản muốn GHPGVNTN tập trung quyền hạn vào tay một người để người này mất thì mất hết, thì Giáo Hội cung ứng ngay Giáo chỉ số 9, hủy bỏ Quyết Định số 27 là công nhận các GHPGVNTN hải ngoại như những giáo hội mang tầm vóc quốc gia.

Cộng sản muốn quần chúng phật-tử thất vọng, ghét bỏ hoặc tẩy chay tất cả Tăng Ni ngoài nước để làm suy yếu Phật giáo, thì Giáo Hội (thông qua Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế do ông Võ Văn Ái làm giám đốc) cho phổ biến những bài viết vô lễ, xách mé, hủy nhục cả Tăng đoàn Việt Nam hải ngoại.

Vậy thì do ai, từ đâu mà có những cung ứng lạ lùng, bất công cho Phật giáo, lợi ích cho cộng sản như thế? Xin hãy dành thời gian, mở cái trí mà suy ngẫm.

Lẽ nào HT. Thích Huyền Quang khởi xướng công cuộc vận động phục hoạt GHPGVNTN mà lại loại trừ nhân sự cốt cán của Viện Hóa Đạo rồi lại giải tán các GHPGVNTN hải ngoại mà ngài đang tin tưởng, đặt kỳ vọng?

Lẽ nào HT. Thích Quảng Độ kêu gọi tự do dân chủ cho dân tộc mà lại ký ban hành các văn kiện phản dân chủ, vi phạm nhân quyền, trái yết-ma đối với các đồng sự, đồng viện, đồng đạo của mình?

Lý và Sự qua trình bày ở trên, rõ ràng là rất dung thông cho âm mưu của cộng sản mà lại bất dung thông cho Phật giáo.

Trong nước, Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ là Viện trưởng Viện Hóa Đạo, kiêm Xử lý thường vụ Viện Tăng Thống; ngoài nước, Hòa thượng Thích Hộ Giác, Phó Tăng Thống kiêm Phó Viện trưởng Viện Hóa Đạo; nhị vị phải chịu trách nhiệm hoàn toàn trước lịch sử về các đại nạn của Phật giáo và Giáo Hội trong giai đoạn khủng hoảng, suy vong mà nhị vị là lãnh đạo cao nhất. Nhị vị im lặng có nghĩa là đồng ý, thỏa mãn với hiện trạng Phật giáo và Giáo Hội, cũng có nghĩa là đồng ý với những phát ngôn, những bài viết nhục mạ, phỉ báng Tăng đoàn.

Tăng đoàn, tập thể của những sứ giả Như Lai, lấy trí tuệ làm sự nghiệp, lấy giải thoát làm hành trang, nối bước Đức Phật và lịch đại Tổ sư để mở rộng con đường của Chánh Pháp, đã từng là tâm điểm cho những tên đạn của ma quân, ngoại đạo, ác đảng; nhưng không lý nào lại quay lưng với nhau, không cảm thương và bảo bọc nhau để vượt qua những chướng duyên, ác nạn của thời đại.

Từ Úc Đại Lợi, xin thành tâm hướng vọng, kính lễ chư tôn đức Tăng Ni khắp mười phương đang chuẩn bị lên đường tham dự Ngày Về Nguồn – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư lần thứ IV tại Đức quốc. Cúi mong chư tôn đức và phật-tử xa gần, nếu không tham dự được cũng nhất tâm cầu nguyện cho sự thành tựu các ý nguyện cao đẹp của Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại. Bởi vì, trước sự phân hóa, suy vong của Phật giáo hải ngoại ngày nay, chỉ còn nơi hội tụ ngời sáng nhất, đó là sự hội tụ thanh tịnh, trang nghiêm và hòa hợp của Tăng đoàn.

Đêm 09.9.2010

Thích Tâm Không

 



Chuyên mục:Nhân vật - Sự kiện, Nhân vật, Sự kiện

Thẻ:, , ,

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.

%d người thích bài này: