Bùi Kha: Vài Ý Kiến Về Bài Thuyết Pháp Công Cộng Của Thiền Sư Nhất Hạnh Tại Nhà Thờ Riverside, NY. (25.09.2001)

Mấy tuần qua, đài phát thanh VOV ở quận Cam và một số báo trong cộng đồng Việt Nam tại Hoa Kỳ, nhất là vùng Nam Cali công kích bài thuyết pháp của Thiền Sư Nhất Hạnh nói trên.

Đài radio VOV và báo loan tin và bình luận làm người nghe lẫn người đọc phần lớn đều hiểu rằng Thiền Sư Nhất Hạnh thiên Cọng và không muốn Hoa Kỳ trả thù kẻ khủng bố làm sập 2 tòa nhà Thương Mãi Thế Giới (World Trade Center) tại NY và Ngũ giác đài tại Washington DC.

Những lời lẽ đài VOV của ông Đỗ Sơn phát đi buộc tội Thiền Sư Nhất Hạnh và lời những người gọi vào mang đầy tính kích động, nguyền rũa, đôi lúc lời lẽ rất tệ và tục.

Ngày 14.10.01, “Hội Ký Giả Việt Nam Hải Ngoại mở cuộc hội luận về lời nói của Thiền Sư Nhất Hạnh” tại nhà hàng Seafodd Paracel, thành phố Westminster, Nam Cali. Theo báo người Việt ngày 16-10, có khoảng 700 người tham dự, gồm cả Hội Đồng Hương Bến Tre như là những nhân chứng cho một tin tức sai lầm của Thiền Sư Nhất Hạnh lúc đề cập đến một chi tiết tại Bến Tre về con số 300.000 người.

Báo NV trình bày tiếp: “Ông Đỗ Sơn, chủ tịch Hội Ký Giả Việt Nam đã lên trình bày toàn bộ vấn đề từ trang quảng cáo trên báo New York Times về buổi thuyết giảng của Thiền Sư Nhất Hạnh cho đến những lời trong bài thuyết pháp của ông tại nhà thờ Riverside Church ngày 25.9.2001 trước hàng ngàn cử tọa người Hoa Kỳ.

Ông Đỗ Sơn đã trích dẫn một đoạn trong bài thuyết pháp của Thiền Sư Nhất Hạnh nói về vụ ném bom Bến Tre, thành phố 300.000 người, cách nay hơn 30 năm. Ông khẳng định rằng tất cả những sự kiện không xác thật đó là do Thiền Sư Nhất Hạnh bịa đặt, trong ý đồ của những nhóm phản chiến nhằm mục đích tạo dư luận trói tay chánh phủ Hoa Kỳ không để cho chống trả bọn khủng bố gây tội ác ngày 11.9.2001.

Theo ký giả CNN đã lên trưng ra những bằng cớ bằng giấy mực của việc nầy, đó là trang quảng cáo về buổi thuyết pháp trên tờ The New York Times, cũng như toàn văn bài nói chuyện của Thiền Sư Nhất Hạnh được thu qua Internet.

Sau đó nhiều cựu viên chức hành chánh tỉnh Bến Tre từ cấp tỉnh như Phó Tỉnh Trưởng Trần Huỳnh Châu, Cựu Chủ Tịch Hội Đồng Tỉnh Nguyễn Văn Cất, cho đến ông Ba Truyền – chủ tịch xã An Hội từ 1960-1975, và các cựu quân nhân từng chiến đấu hay phục vụ tại Bến Tre. Tất cả đều xác nhận thị xã Bến Tre chỉ có khoảng 80 ngàn dân chứ không phải 300.000. Thêm nữa suốt trong thời chiến tranh và trong vụ Việt Cộng tấn công Tết Mậu Thân, thời điểm đó Thiền Sư Nhất Hạnh nói tới, chưa hề có vụ các phi cơ Hoa Kỳ hay Việt Nam Cộng Hòa dội bom hủy diệt thị xã Bến Tre bao giờ. Cựu sĩ quan Đinh Viết Chính từng hiện diện tại Tre trong biến cố Tết Mậu Thân, cựu sĩ quan hải quân Việt Nam Cộng Hòa Huỳnh Hữu Thuận gần đây đã về thăm gia dình, đều xác nhận rằng nhà thờ, chùa, trường học ở quê của ông là thị xã Bến Tre vẫn còn nguyên.

Tóm lại những dữ kiện về dân số như việc thành phố bị hủy diệt mà Thiền Sư Nhất Hạnh kể ra trong bài nói chuyện tại New York là hoàn toàn không xảy ra trên thực tế. Cử tọa đã nhiều lần vỗ tay đồng ý với các nhân chứng đã đưa ra những bằng chứng hùng hồn rằng lời Thiền Sư Nhất Hạnh không đúng sự thật.

Trong các lời phát biểu, ông Minh Thuần, một Phật Tử, cho biết ông từng ngưỡng mộ Thiền Sư Nhất Hạnh từ lâu, nhưng qua những chứng cớ ban tổ chức và nhân chứng trình bày thì thấy chính thiền sư đã tạo ra cái nghiệp khi lên tiếng bênh vực bọn khủng bố tức bênh cái ác, và ông sẽ phải lãnh hậu quả.

Giáo Sư Lưu Trung Khảo nói rằng cần phải có ranh giới rõ ràng giữa Thế Quyền và Thần Quyền. Một nhà tu có bổn phận hướng dẫn đệ tử đi vào con đường lương hảo. Nhưng nếu nhà tu hành bước sang lãnh vực chánh trị thì người ấy sẽ bị phán xét với tư cách là một công dân chứ không phải là một tu sĩ.”

Trong bài tường trình của Người Việt có đăng hình quang cảnh buổi “…Hội Luận…” và phóng ảnh của tờ quảng cáo… Và cho biết tờ New York Times đăng bài nói chuyện của Thiền Sư Nhất Hạnh trước hàng ngàn cử tọa người Hoa Kỳ.

Qua đoạn tường thuật của báo Người Việt mà tôi trích nguyên văn như trên, chúng ta thấy có ba điểm chính mà ông Đỗ Sơn và các người chỉ trích là:
– Thiền Sư Nhất Hạnh nói vụ ném bom Bến Tre, thành phố 300.000 người cách đây 30 năm là sai. Thị xã Bến Tre chỉ có 80 ngàn dân mà thôi.
– Chưa bao giờ có vụ đội bom hủy diệt Thị xã Bến Tre.
– Mục đích của “Thiền Sư Nhất Hạnh bịa đặt ra trong ý đồ… trói tay chánh phủ Hoa Kỳ không để cho chống trả bọn khủng bố gây tội ác ngày 11.9.2001”

Lúc phê bình chỉ trích Thiền Sư Nhất Hạnh như vậy không biết ông Đỗ Sơn và quý vị khác đã đọc hết cả bài báo bằng Anh Ngữ đó chưa? Hay chỉ được thấy hình bìa tờ báo và nghe người khác nói về nội dung tờ báo đó mà thôi, còn chính cá nhân những người phê bình lại chưa đọc hoặc có đọc qua loa nhưng chưa nắm rõ nội dung và mục đích bài thuyết pháp đó nói gì.

Lúc viết bài nầy, tôi có tìm được trong Webside bài bằng tiếng Anh của Thiền Sư Nhất Hạnh gần 8 trang với tựa đề “Embracing Anger” (Kềm Hảm Sự Giận Dữ).

Nội dung bài thuyết pháp có mấy điểm chính:

  1. Làm thế nào đề kềm hãm sự giận dữ.
  2. Không nên nói và hành động lúc tức giận vì có thể thiếu sự khôn ngoan và có hại hơn lợi.
  3. Cuộc chiến tranh Việt Nam trước đây không những đem đến đau khổ (suffering) cho nhiều người Việt mà cho người Hoa Kỳ nữa do thiếu sự hiểu biết lẫn nhau giữa hai phía. Thiền sư Nhất Hạnh nói, kẻ thù của con người không phải là con người mà do vô minh, do kỳ thị, sợ hãi, tham lam và bạo động. (The real enemy of man is not man. The real enemy is our ignorance, discrimination, fear, craving and violence).

Ông cũng cho biết, thấy cuộc chiến Việt Nam đem đến đau khổ cho con người nên ông qua Mỹ để vận động chấm dứt chiến tranh. Ông có gặp Bộ Trưởng Quốc Phòng, ông Robert MacNamara, đàm luận với vị bộ trưởng nầy về nguyên nhân sâu xa của cuộc chiến. Ông MacNamara lắng nghe và cầm giữ Thiền sư Nhất Hạnh để trò chuyện lâu dài. Ba tháng sau, lúc cuộc chiến đến hồi cao điểm, Thiền sư Nhất Hạnh nghe vị bộ trưởng nầy từ chức. Chính vì sự đi vận động hòa bình nầy, Thiền sư Nhất Hạnh nói, mà cho đến nay, ông vẫn chưa được phép về thăm quê hương.

Thiền sư Nhất Hạnh cũng nói về ông Osama Bin Laden (What I would say to Osama Bin Laden). Ông đề nghị người Hoa Kỳ nên bình tĩnh và sáng suốt để làm những gì có thể làm được nhằm đối phó với hoàn cảnh. Không nên quyết định vấn đề lúc đang nóng giận sẽ thiếu sự thông minh và có thể nguy hiểm.

  1. Ông Nhất Hạnh cũng cho biết trong mùa hè vừa rồi có một nhóm người Palestine và vài chục người Do Thái đến Làng Mai bên Pháp để thực tập thiền quán, sự bình tĩnh và an lạc. Sau hai tuần thực tập, họ cảm thấy tìm được một con đường để hai dân tộc có thể hòa hợp với nhau thay vì hận thù.
  2. Trong bài thuyết pháp nầy có hai đoạn mở đầu (mười một dòng) và một đoạn gần cuối bài (ba dòng) nói về cuộc dội bom tại tỉnh Bến Tre trước 1975, và đây chính là cái cớ của vụ việc phê phán. Để độc giả thấy rõ vấn đề, tôi xin trích nguyên văn tiếng Anh ba đoạn nói về Bến Tre. Ba đoạn nầy chiếm 1/4 trang trong gần 8 trang giấy khổ 8×11. Và dĩ nhiên ba đoạn nầy là một trong nhiều thí dụ “Làm thế nào để kềm chế sự tức giận” chứ không phải là nội dung của bài giảng mà Thiền sư Nhất Hạnh nhắm tới.

Nguyên văn Anh ngữ của đoạn đầu:

“My dear friends, I would like to tell you how I practice when I get angry. During the war in Vietnam, there was a lot of injustice and many thousands including friends of mine, many disciples of mine were killed I got very angry. One time I learned that the city of Ben Tre, a city of three hundred thousand people, was bombarded by American aviation just because some guerillas came to the city and tried to shoot down American aircrafts. The guerillas did not succeed and after that they went away. And the city was destroyed. And the military man who was responsible for that declared later that he had to destroy the city of Ben Tre to save it. I was very angry.

But at that time, I was already a practitioner, a solid practitioner. I did not say anything. I did not act, because I knew that acting or saying things while you are angry is not wise. It may create a lot of destruction. I went back to myself, recognizing my anger, embracing it, and looked deeply into the nature of my suffering.”

Tạm dịch:

“Các bạn thân kính. Tôi muốn trình bày với quí vị tôi xử sự thế nào lúc nóng giận. Trong suốt cuộc chiến Việtnam, có nhiều sự bất công và nhiều ngàn người có cả những bạn của tôi, nhiều đệ tử bị giết. Tôi rất căm giận. Khi nghe tỉnh Bến Tre, một thành phố có ba trăm ngàn người bị dội bom bởi không quân Hoa Kỳ vì có vài quân du kíck đến thành phố để bắn hạ máy bay của Hoa Kỳ. Quân du kích thất bại rồi bỏ đi. Thành phố bị tàn phá. Một phi công có trách nhiệm tuyên bố rằng ông ta phải tàn phá thành phố Bến Tre để có thể cứu vãn nó. Tôi rất giận.

Nhưng thời kỳ đó, tôi đã là người thực hành (thiền quán). Tôi không nói và cũng không hành động, vì tôi biết rằng làm và nói những gì trong lúc chúng ta đang giận hờn thì thiếu sáng suốt, ‘giận mất khôn’. Nó có thể tạo nên nhiều tai hại. (Nghĩ thế), tôi trở lại với chính mình, nhận thức được cơn nóng giận, chế ngự nó và nhìn vào cái thực tướng của sự đau khổ của chính tôi…”

Và đoạn áp chót:

“When we learned of the bombing of the Bentre village in Vietnam, where 300.000 homes were destroyed, and the pilots told journalists that they had destroyed the village in order to save it, I was shocked, and [racked] with anger and grief. We practiced walking calmly and gently on the earth to bring back our calm mind and peaceful heart.

Tạm dịch:

(Lúc chúng tôi nghe tin bom thả xuống một làng ở Bến tre tại Việt nam, nơi có ba trăm ngàn nóc nhà bị tàn phá, và các phi công nói với các nhà báo rằng họ phải tàn phá cái làng này để cứu vãn nó, tôi bị sốc, bị cuốn theo sự giận hờn và đau khổ. Chúng tôi thực hành sự bước đi trong điềm tĩnh và nhẹ nhàng trên quả đất nầy để mang lại sự an lạc cho khối óc và con tim.

Qua ba đoạn trích dẫn, chúng ta thấy: có sự sai lầm của Thiền Sư Nhất Hạnh trong khi nhắc lại dữ kiện của các bản tin thời sự đương thời với con số 300 ngàn người ( hay) 300 ngàn nóc nhà đều là những con số thiếu chính xác. Nhưng việc không quân Hoa Kỳ dội bom tại Bến Tre là một sự kiện lịch sử không ai phủ nhận được. Để làm sáng tỏ về sự kiện này, chúng tôi xin đề cập đến cuốn sách “The Endless War”, tác giả James Harrison [Nxb. Columbia University Press, NY.1989, trang 172 ] cho biết năm 1968, không quân Mỹ đã dội bom xuống thị xã Bến Tre ( với dân số lúc đó khoảng 75,000 dân ) hầu như hoàn toàn huỷ hoại ( almost destroyed ), làm cho 500 thường dân bị thiệt mạng, hơn 1,200 người bi thương. Một viên chức đã giải thích lý do của sự huỷ hoại này là để cứu thị xã này: “We have to destroy the town to save it” . Một tài liệu khác được phổ biến trên Website của quân đội Mỹ ( Military.Com trong loạt bài lai cảo “River Rats” nhắc lại biến cố hủy hoại thị xã Bến Tre – Primedia Enthusiast Publications, Inc.), ký giả Peter Arnett [ hiện vẫn còn làm việc cho đài truyền hình ABC ] đã chứng kiến cả một thị xã hoàn toàn bị huỷ hoại, và hàng ngàn thường dân trong khiếp hãi đã bị mất nhà cửa trong cuộc chiến : “Arnett met the US. Army and Air Force personnel who had had a harrowing experience in the MACV compound. He also saw how completely the town had been destroyed – and the thousands of frightened South Vietnamese civilians who had lost their homes in the battle”{ Mạng lưới http://www.military.com “River Rats”}.

Nhưng ba đoạn văn nầy chỉ nhằm mục đích nói rằng lúc giận dữ thì không nên nói, không nên làm, mà nên bình tĩnh trước đã. Ông cũng nói rõ: “One time I learned, When we learned”, có nghĩa là “Khi tôi nghe nói như vậy. Lúc chúng ta nghe tin như vậy”. Chứ không hề có sự quả quyết về sự kiện nầy mà chỉ dùng nó như một thí dụ. Thêm vào đó, đọc ky,õ quí vị thấy đoạn đầu viết “… a City of three hundred thousand peolple…” Nhưng đoạn gần cuối lại viết: “… the Bentra village thay vì Bentre, làng Bến Tre tại Việt Nam lại có đến 300.000 nóc nhà, nghĩa là cả triệu người vì mỗi nhà có khoảng vài ba người. Và một làng (village) lại có dân số lớn hơn một thành phố. Điều đó cho thấy con số “300.000 homes” là lỗi chính tả do người đánh máy.  Tuy nhiên, nếu có những con số và những sự kiện chính xác và tránh lỗi chính tả thì vẫn tốt hơn mặc dầu Thiền sư Nhất Hạnh không phải là một sử gia và không phải là người đánh máy.

Những người chỉ trích vin vào mấy con số trong ba đoạn văn nói trên, nhưng ba đoạn văn ngắn này không phải là ý nghĩa và mục đích bài pháp thoại của Thiền sư Nhất Hạnh và toàn bộ nội dung của bài thuyết pháp cho người Hoa Kỳ không hề có hoặc ngụ ý “tạo dư luận trói tay chánh phủ Hoa Kỳ không để cho chống trả bọn khủng bố gây tội ác ngày 11.9.01” hoặc thiên cọng hay cọng sản nằm vùng như ông Đỗ Sơn và vài người cáo buộc. Ngược lại trong đoạn nói về Osama Bin Laden (What I would say to Osama Bin Laden) Thiền sư Nhất Hạnh đề nghị người Hoa Kỳ nên bình tĩnh và sáng suốt lúc đối phó với tình hình, không nên nói hoặc làm lúc còn đang nóng giận. Đó thiết tưởng là một lời khuyên cần thiết và hữu lý.

Cũng cần nói thêm rằng qua vụ công kích kịch liệt của ông Đỗ Sơn chúng ta thấy một vài người Việt sống trên đất Hoa Kỳ đã 26 năm qua vẫn chưa học thêm được nhiều điều tốt đẹp, chưa hiểu nghĩa chữ Tự Do, tự do ngôn luận, tự do báo chí là gì. Thiền sư Nhất Hạnh nói chuyện tại Nhà thờ Riverside New York có hàng ngàn người Mỹ tham dự, họ ca tụng, tán thưởng, có người còn cảm hứng làm thơ tặng, tuần báo New York Times đăng bài phổ biến. Nếu buổi nói chuyện của nhà sư nầy không ra gì, phản động, đi ngược luật pháp, ngược quyền lợi của người dân Hoa Kỳ thì tại sao số cử tọa mấy ngàn người đó không tẩy chay và bỏ ra về?

Báo New York Times có hàng triệu độc giả Hoa Kỳ và thế giới chưa thấy ai có thái độ phàn nàn nào.

Sự việc quá rõ ràng như ban ngày thế mà ông Đỗ Sơn, chủ đài VOV kiêm chủ tịch Hội Ký Giả Việt Nam Hải Ngoại lớn tiếng vu cáo, thóa mạ, buộc tội một người vắng mặt. Hành động này giống như các vụ đấu tố ruộng đất 54, các tòa án Nhân Dân, và tòa xử người khác tín ngưỡng thời Trung Cổ (Inquisition). Bất cứ ai cũng có quyền không đồng ý và tỏ thái độ chống đối “sản phẩm” của người khác, nhưng lời lẽ chống đối và dụng tâm của ông Đổ Sơn thì không thích hợp tại một quốc gia mà chúng ta đang sống. Giả sử thiền sư Nhất Hạnh hay bất cứ một nhà văn nhà báo… nào có sự sai lầm về con số hay có dụng tâm, thì một người đàng hoàng có văn hóa chỉ cần nói “con số đó sai, tác giả có dụng tâm.” Chấm hết.

Hẳn ông Đổ Sơn cũng hiểu rằng, “cuộc chiến 911” không hoàn toàn thuần túy chính trị mà còn mang tính tôn giáo phức tạp. Trong một quốc gia sinh hoạt theo lối dân chủ, có bộ phận mang áo giáp ra chiến trường còn số khác ở lại xây dựng hậu cần. Các nhà lập pháp, những khối óc lớn bóp trán suy tư để tìm một solution, một chính sách ngoại giao về lâu về dài cho xứ sở, họ lấy ý dân và phỏng vấn lãnh tụ các tôn giáo để biết thêm quan điểm. Đức Giáo Hòang khuyên nên hòa bình, Ngài Đạt Lai Lạc Ma cũng thế. Còn Thiền sư Nhất Hạnh nói: “chúng ta nên tĩnh thức, bước đi nhẹ nhàng, thận trọng trên quả đất nầy để đem lại sự an lạc cho khối óc và con tim của mỗi chúng ta.”

Lúc ông Sơn kịch liệt chống đối quan điểm của vị Sư nầy hầu như với hảo ý tỏ ra ủng hộ và binh vực một quốc gia đang cưu mang mình, nhưng điều nầy cũng nên suy nghĩ. Các policymakers, những người làm chính sách và các khối óc lớn của Hoa Kỳ lại có thể muốn nghe những tiếng nói khác, thay vì chỉ một chiều. Vì thế có hàng ngàn người Hoa Kỳ nghe pháp thoại và tờ New York Times đã quảng bá rầm rộ để có hàng triệu người biết đến một quan điểm khác của một nhà sư Phật giáo.

Để xem, 89% dân chúng muốn “chiến” nhưng lúc có 5,7 quan tài từ chiến trường A Phú Hản chở về, con số ủng hộ nầy có lẽ sẽ giảm xuống. Không đi chiến đấu bên kia đại dương với các anh, mà ở nhà làm đài VOV không có nghĩa là tôi không ủng hộ. Nhiều nhóm người Hoa Kỳ chống thả bom tại A Phú Hản không có nghĩa là họ ủng hộ kẻ khủng bố và họ phản bội quê hương. Ai không đồng ý với tôi chưa chắc là họ hoàn toàn sai mà tôi hoàn toàn đúng.

Đối với sự kiện nầy, chưa thấy Hội Ký Giả Việt Nam Hải Ngoại có thái độ cụ thể nào. Toàn ban chấp hành và các hội viên đã đọc bài pháp thoại của Thiền Sư Nhất Hạnh chưa? Vị nào có thái độ thuận nghịch thế nào cũng nên cho quần chúng biềt để rộng đường dư luận.

Thiết nghĩ giới truyền thông, những người có trách nhiệm và những người hay phê bình chỉ trích vô căn cứ nên thận trọng trong tất cả các việc làm để cộng đồng chúng ta có thêm đoàn kết, trong sạch, tiến bộ và văn minh hơn.

Bùi Kha
22.10.01

Buổi Nói Chuyện Trước Công Chúng
Tại Nhà Thờ Riverside, New York
Của Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
Ngày 25-9-2001 Sau Biến Cố 9-11

Duyên Sinh dịch

Lời người chuyển ngữ: Chiến tranh và hận thù chẳng những là một loại chất độc tàn phá quê hương đất nước Việt Nam; ngăn chận sự tiến bộ của dân tộc Việt Nam; đưa đời sống của nhân dân Việt Nam thụt lùi trở lại cả trăm năm so với các dân tộc đương thời trên thế giới… mà nó còn đưa tới một tình trạng bệnh hoạn lan tràn trong một số người, làm cho họ không thể thoát khỏi ngục tù vô minh của chính họ sau gần nửa thế kỷ chiến tranh chấm dứt. Giờ đây thì họ đã trở thành những con người không còn thuốc chữa. Họ đã trở thành một mối nguy cho xã hội…

Gần đây, trên mạng lưới internet người ta thường nhắc tới từ ngữ “vu khống là một căn bệnh bất trị.” Đúng là như vậy. Vu khống, chụp mũ, bôi bẩn người khác… là những thủ đoạn của những người đang mắc bệnh. Họ không thể sống nổi trong hòa bình. Họ luôn cần chiến tranh, và nếu không có chiến tranh thì họ cũng phải kích động tranh cãi bằng cách vu khống, chụp mũ, nhục mạ… bất cứ những ai trong quá khứ đã dám lên tiếng tranh đấu cho hòa bình Việt Nam. Một trong những nạn nhân của họ là Thiền Sư Thích Nhất Hạnh.

Lá Thư Làng Mai số 25, ra ngày 12 tháng 2 năm 2002, trang 6, viết:

Buổi thuyết giảng tại nhà thờ Riverside quả thật là một phép lạ. Trước hôm 25.9.01 nhiều người đã lo lắng cho Thầy, sợ Thầy sẽ bị ám hại ngay trong đêm diễn thuyết, bởi vì Thầy đã muốn nói lên một tiếng nói mà ít ai dám nói. Có một số những vị nhân sĩ trong giới lãnh đạo chính trị, doanh nghiệp, trí thức đã tỏ ý yểm trợ Thầy, hứa sẽ đến có mặt để giới thiệu Thầy đêm đó, nhưng đã không đến được. Lý do sâu xa không phải là vì họ bận rộn, nhưng vì họ biết tiếng nói nhân bản này sẽ làm cho họ mất quần chúng, bởi vì các giới quần chúng đang sôi sục hận thù, ai nấy đều muốn yểm trợ chiến tranh. Hận thù không phải là lý do duy nhất, ngoài hận thù còn có lý do sợ hãi. Vì sợ hãi nên người ta muốn tỏ ra mình can đảm, sẵn sàng để đối phó bằng bạo lực; sợ rằng nói ra lời nói của thương yêu, của từ bi thì sẽ bị người ta xem là mình yếu đuối và bất lực, cũng như người đi ban đêm sợ ma thì hay hát lớn lên để tỏ ra rằng mình không sợ, nhưng có thể là mình đang run. Ngoài lý do hận thù và sợ hãi, còn có lý do tự ái bị tổn thương. Nước Mỹ thường nghĩ mình là mạnh nhất hoàn cầu, đánh ai thì kẻ ấy thua, và không ai có thể đánh bại được mình, và chạm được đến mình.

Kể từ đó, họ căm thù Thầy Nhất Hạnh vì Thầy Nhất Hạnh dám tranh đấu cho hòa bình, cho sự thương yêu và hiểu biết. Khi số đông quần chúng bắt đầu thấy được tầm quan trọng của sự thương yêu và hiểu biết, và bắt đầu ủng hộ Thầy Nhất Hạnh, thì cũng là lúc mà họ cảm thấy họ bị quần chúng bỏ rơi. Để tiếp tục chứng bệnh cuồng tín và hiếu chiến, họ quay sang đánh phá Thầy Nhất Hạnh và đánh phá bất cứ ai không chấp nhận bản chất hiếu chiến của họ, bằng cách vu khống, chụp mũ, xuyên tạc, nhục mạ… tất cả những người có sự suy nghĩ khác họ.

Một bằng chứng cụ thể về vu khống rõ ràng nhất của họ là việc vu khống Thầy Nhất Hạnh vọng ngữ. Họ kết tội Thầy Nhất Hạnh đã nói trong bài nói chuyện trước công chúng tại nhà thờ Riverside, New York ngày 25-9-2001, là máy bay Mỹ đã bỏ bom giết chết “ba trăm ngàn” dân Bến Tre. “Một sự vu khống mà họ đã bịa đặt ra từ cửa miệng của họ, và giờ đây, trước công chúng và sự thật, thì họ cũng phải nuốt vào bằng cửa miệng của họ”. Thật là tội nghiệp!.. 

Tuy nhiên vu khống, chụp mũ, và nhục mạ… của họ không thể trở thành trầm trọng nếu không có sự phụ họa của một vài Phật tử tại gia hoặc một vài vị xuất gia. Quý vị này phạm giới ngay giữa công chúng, khi họ ủng hộ và đẩy mạnh thêm sự vu khống, chụp mũ, và nhục mạ người khác mà không tìm hiểu cho rõ ràng, không trưng bày được bằng chứng để buộc tội nạn nhân của họ. Đây là một tình trạng tệ hại nhất trong ngành truyền thông do những người bệnh hoạn từ hậu quả của thù hận trong chiến tranh Việt Nam gây ra, mà kết quả cho thấy, họ đã cố tình ngửa mặt phun nước bọt lên trời, nhưng không trúng trời mà trúng vào mặt họ.

Dám nói lên sự thật (chân lý) là một việc chẳng những khó khăn, mà lại còn nguy hiểm đến tính mạng. Nền văn minh nhân loại ngày nay cực kỳ hưng thịnh cũng nhờ hàng hàng lớp lớp những người, nhất là các nhà bác học, dám nói lên sự thật. Bản tuyên ngôn độc lập của Mỹ nói “Tất cả mọi người sinh ra bình đẳng” trong khi rất nhiều người trong xã hội Mỹ lúc đó phủ nhận chân lý bình đẳng. Tổng Thống Abraham Lincoln là người dám cả gan giải phóng nô lệ bằng cách thực thi câu nói trên nên ông bị bắn chết. Nhà nghiên cứu Darwin dám nói vạn vật nương nhau mà sinh trong khi Kinh Thánh nói vạn vật do Thiên Chúa tạo ra, đã gây hiềm khích triền miên. Nhà bác học Galileo Galilei dám cả gan nói trái đất hình tròn trong khi Kinh Thánh nói trái đất hình vuông (Ezekiel 7:1-2), nên Galileo bị quản thúc tại gia cho tới chết. Và Thầy Nhất Hạnh dám cả gan nói “Từ bi, Hiểu và Thương” có thể giải quyết xung đột trên thế giới, trong khi một số người khác nói chỉ có “hận thù và bom đạn” mới có thể giải quyết xung đột trên thế giới, nên Thầy bị vu khống, bị chụp mũ, và bị bôi bẩn… Mời độc giả đọc bài chuyển ngữ phía dưới, và bản chánh tiếng Anh bằng cách bấm vào đường dẫn sau:

thezensite

A Public Talk by Thich Nhat Hanh at the Riverside Church, New York

Hakuin’s Daruma
Thich Nhat Hanh

from: Making Sense of These Times
September 25, 2001

My Dear friends, I would like to tell you how I practice when I get angry. During the war in Vietnam, there was a lot of injustice, and many thousands, including friends of mine, many disciples of mine, were killed. I got very angry. One time I learned that the city of Ben Tre, a city of three hundred thousand people, was bombarded by American aviation just because some guerillas came to the city and tried to shoot down American aircrafts. The guerillas did not succeed, and after that they went away. And the city was destroyed. And the military man who was responsible for that declared later that he had to destroy the city of Ben Tre to save it. I was very angry.

But at that time, I was already a practitioner, a solid practitioner. I did not say anything, I did not act, because I knew that acting or saying things while you are angry is not wise. It may create a lot of destruction. I went back to myself, recognizing my anger, embracing it, and looked deeply into the nature of my suffering.

In the Buddhist tradition, we have the practice of mindful breathing, of mindful walking, to generate the energy of mindfulness. It is exactly with that energy of mindfulness that we can recognize, embrace, and transform our anger. Mindfulness is the kind of energy that helps us to be aware of what is going on inside of us and around us, and anybody can be mindful. If you drink a cup of tea and you know that you are drinking a cup of tea, that is mindful drinking. When you breathe in and you know that you are breathing in, and you focus your attention on your in-breath, that is mindfulness of breathing. When you make a step and you are aware you are making a step, that is called mindfulness of walking. The basic practice in Zen centers, meditation centers, is the practice of generating mindfulness every moment of your daily life. When you are angry, you are aware that you are angry. Because you already have the energy of mindfulness in you created by the practice, that is why you have enough of it in order to recognize, embrace, look deeply, and understand the nature of your suffering.

I was able to understand the nature of the suffering in Vietnam. I saw that not only Vietnamese suffered, but Americans suffered as well during the war in Vietnam. The young American man who was sent to Vietnam in order to kill and be killed underwent a lot of suffering, and the suffering continues today. The family, the nation also suffers. I could see that the cause of our suffering in Vietnam is not American soldiers. It is a kind of policy that is not wise. It is a misunderstanding. It is fear that lies at the foundation of the policy.

Many in Vietnam had burned themselves in order to call for a cessation of the destruction. They did not want to inflict pain on other people, they wanted to take the pain on themselves in order to get the message across. But the sounds of planes and bombs was too loud. The people in the world, not many of them were capable of hearing us. So I decided to go to America and call for a cessation of the violence. That was in 1966, and because of that I was prevented from going home. And I have lived in exile since that time, 1966.

I was able to see that the real enemy of man is not man. The real enemy is our ignorance, discrimination, fear, craving, and violence. I did not have hate the American people, the American nation. I came to America in order to plead for a kind of looking deeply so that your government could revise that kind of policy. I remember I met with Secretary of Defense Robert MacNamara. I told him the truth about the suffering. He kept me with him for a long time and he listened deeply to me, and I was very grateful for his quality of listening. Three months later, when the war intensified, I heard that he resigned from his post.

Hatred and anger was not in my heart. That is why I was listened to by many young people in my country, advocating them to follow the path of reconciliation, and together we helped to bring about the new organizations for peace in Paris. I hope my friends here in New York are able to practice the same. I understood, I understand suffering and injustice, and I feel that I understand deeply the suffering of New York, of America. I feel I am a New Yorker. I feel I am an American.

You want to be there for you, to be with you, not to act, not to say things when you are not calm. There are ways that we can go back to ourselves and practice so that we rediscover our calmness, our tranquility, our lucidity. There are ways that we can practice so that we understand the real causes of the suffering. And that understanding will help us to do what needs to be done, and not do what could be harmful to us and to other people. Let us practice mindful breathing for half a minute before we continue.

In Buddhist psychology, we speak of consciousness in terms of seeds. We have the seed of anger in our consciousness. We have the seed of despair, of fear. But we also have the seed of understanding, wisdom, compassion, and forgiveness. If we know how to water the seed of wisdom and compassion in us, that seed, these seeds will manifest themselves as powerful sorts of energy helping us to perform an act of forgiveness and compassion. It will be able to bring relief right away to our nation, to our world. That is my conviction.

I believe very strongly that the American people have a lot of wisdom and compassion within themselves. I want you to be your best when you begin to act, for the sake of America and for the sake of the world. With lucidity, with understanding and compassion, you will turn to the people who have caused a lot of damage and suffering to you and ask them a lot of questions.

“We do not understand enough of your suffering, could you tell us? We have not done anything to you, we have not tried to destroy you, to discriminate against you, and we do not understand why you have done this to us. There must be a lot of suffering within you. We want to listen to you. We may be able to help you. And together we can help build peace in the world.” And if you are solid, if you are compassionate when you make this statement, they will tell you about their suffering.

In Buddhism we speak of the practice of deep listening, compassionate listening, a wonderful method by which we can restore communication – communication between partners, communication between father and son, communication between mother and daughter, communication between nations. The practice of deep listening should be taken up by parents, by partners, so that they can understand the suffering of the other person. That person might beour wife, our husband, our son, or our daughter. We may have enough good will to listen, but many of us have lost our capacity to listen because we have a lot of anger and violence in us. The other people do not know how to use kind speech; they always blame and judge. And language is very often sour, bitter. That kind of speech will always touch off the irritation and the anger in us and prevent us from listening deeply and with compassion. That is why good will to listen is not enough. We need some training in order to listen deeply with compassion. I think, I believe, I have the conviction, that a father, if he knows how to listen to his son deeply and with compassion, he will be able to open the door of his sons heart and restore communication.

People in our Congress and our Senate should also train themselves in the art of deep listening, of compassionate listening. There is a lot of suffering within the country, and many people feel their suffering is not understood. That is why politicians, members of the Parliament, members of the Congress have to train themselves in the art of deep listening – listening to their own people, listening to the suffering in the country, because there is injustice in the country, there is discrimination in the country. There is a lot of anger in the country. If we can listen to each other, we can also listen to the people outside of the country. Many of them are in a situation of despair, many suffer because of injustice and discrimination. The amount of violence and despair in them is very huge. And if we know how to listen as a nation to their suffering, we can already bring a lot of relief. They will feel that they are being understood. That can diffuse the bomb already.

I always advise a couple that when they are angry with each other, they should go back to their breathing, their mindful walking, embrace their anger, and look deeply into the nature of their anger. And they may be able to transform that anger in just fifteen minutes or a few hours. If they cannot do that, then they will have to tell the other person that they suffer, that they are angry, and that they want the other person to know it. They will try to say it in a calm way. “Darling, I suffer, and I want you to know it.” And in Plum Village, where I live and practice, we advise our friends not to keep their anger for more than twenty-four hours without telling the other person. “Darling, I suffer, and I want you to know it. I do not know why you have done such a thing to me. I do not know why you have said such a thing to me.” That is the first thing they should tell the other person. And if they are not calm enough to say it, they can write it down on a piece of paper.

The second thing they can say or write down is, “I am doing my best.” It means “I am practicing not to say anything, not to do anything with anger, because I know that in doing so I will create more suffering. So I am embracing my anger, I am looking deeply into the nature of my anger.” You tell the other person that you are practicing holding your anger, understanding your anger, in order to find out whether that anger has come from your own misunderstanding, wrong perception, your lack of mindfulness and your lack of skillfulness.

And the third thing you might like to say to him or her is, “I need your help.” Usually when we get angry with someone, we want to do the opposite. We want to say, “I don’t need you. I can survive by myself alone.” “I need your help” means “I need your practice, I need your deep looking, I need you to help me to overcome this anger because I suffer.” And if I suffer, there is no way that you can be happy, because happiness is not an individual matter. If the other person suffers, there is no way that you can be truly happy alone. So helping the other person to suffer less, to smile, will make you happy also.

The Buddha said, “This is like this, because that is like that. This is because that is.” The three sentences I propose are the language of true love. It will inspire the other person to practice, to look deeply, and together you will bring about understanding and reconciliation. I propose to my friends to write down these sentences on a piece of paper and slip it into their wallet. Every time they get angry at their partner or their son or daughter, they can practice mindful breathing, take it out, and read. It will be a bell of mindfulness telling them what to do and what not to do. These are the three sentences: “I suffer and I want you to know it.” “I am doing my best.” “Please help.”

I believe that in an international conflict, the same kind of practice is possible also. That is why I propose to America as a nation to do the same. You tell the people you believe to be the cause of your suffering that you suffer, that you want them to know it, that you want to know why they have done such a thing to you, and you practice listening deeply and with compassion.

The quality of our being is very important, because that question, that statement is not a condemnation, but a willingness to create true communication. “We are ready to listen to you. We know that you must have suffered a lot in order to have done such a thing to us. You may have thought that we are the cause of your suffering. So please tell us whether we have tried to destroy you, whether we have tried to discriminate against you, so that we can understand. And we know that when we understand your suffering, we may be able to help you.” That is what we call in Buddhism “loving speech” or “kind language,” and it has the purpose of creating communication, restoring communication. And with communication restored, peace will be possible.

This summer, a group of Palestinians came to Plum Village and practiced together with a group of Israelis, a few dozen of them. We sponsored their coming and practicing together. In two weeks, they learned to sit together, walk mindfully together, enjoy silent meals together, and sit quietly in order to listen to each other. The practice taken up was very successful. At the end of the two weeks practice, they gave us a wonderful, wonderful report. One lady said, “Thay, this is the first time in my life that I see that peace in the Middle East is possible.” Another young person said, “Thay, when I first arrived in Plum Village, I did not believe that Plum Village was something real because in the situation of my country, you live in constant fear and anger. When your children get onto the bus, you are not sure that they will be coming home. When you go to the market, you are not sure that you will survive to go home to your family. When you come to Plum Village, you see people looking at each other with loving kindness, talking with other kindly, walking peacefully, and doing everything mindfully. We did not believe that it was possible. It did not look real to me.”

But in the peaceful setting of Plum Village, they were able to be together, to live together, and to listen to each other, and finally understanding came. They promised that when they returned to the Middle East, they would continue the practice. They will organize a day of practice every week at the local level and a day of mindfulness at the national level. And they plan to come to Plum Village as a bigger group to continue the practice.

I think that if nations like America can organize that kind of setting where people can come together and spend their time practicing peace, then they will be able to calm down their feelings, their fears, and peaceful negotiation will be much easier.

read an interview with Thich Nhat Hanh

http://www.thezensite.com/ZenTeachings/Essence_of_compassion.html

Nội dung bài chuyển ngữ

Ngày 25-9-2001

Các bạn thân mến, tôi muốn nói cho các bạn biết là làm thế nào tôi có thể thực tập để làm chủ được cơn giận của tôi. Trong thời gian chiến tranh Việt Nam, người dân Việt Nam đã phải chịu gánh lấy rất nhiều bất công. Hàng ngàn người, bao gồm cả bạn bè của tôi, nhiều đệ tử của tôi, đã bị giết, làm tôi rất tức giận. Tôi biết có một lần, tại thành phố Bến Tre, một thành phố có ba trăm ngàn dân cư ngụ, đã bị không quân Mỹ bỏ bom chỉ vì một vài người du kích đến thành phố này. Họ đã đến thành phố này với cố gắng để bắn hạ máy bay Mỹ. Các du kích quân đã không thành công, và sau đó thì họ bỏ đi, và thành phố Bến tre đã bị tàn phá. Tôi rất giận khi những người trong quân đội có trách nhiệm sau đó đã tuyên bố họ phải phá hủy thành phố Bến Tre để cứu thành phố Bến Tre.

Nhưng tại thời điểm đó, tôi đã là một học viên, một học viên vững chãi. Tôi đã không nói bất cứ điều gì, tôi cũng đã không hành động. Bởi vì tôi biết rằng hành động hoặc nói những điều gì trong khi đang tức giận là không khôn ngoan. Nói và hành động trong khi đang tức giận có thể tạo ra rất nhiều sự tàn phá. Tôi quay trở lại với chính tôi, tôi nhận diện sự tức giận của chính tôi, tôi ôm ấp sự tức giận của chính tôi, và tôi nhìn sâu vào bản chất của đau khổ của chính tôi.

Trong truyền thống Phật giáo, chúng ta có phương pháp thực tập hơi thở chánh niệm, đi bộ chánh niệm, là để chúng ta có thể chế tác năng lượng chánh niệm. Năng lượng chánh niệm là năng lượng mà chúng ta có thể nhận diện ra nó. Nhận diện ra nó để nó có thể ôm ấp và chuyển hóa sự tức giận của chúng ta. Chánh niệm là năng lượng giúp chúng ta ý thức được những gì đang xảy ra ở bên trong và ở xung quanh chúng ta, mà ai cũng có thể thực tập. Nếu bạn uống một tách trà mà bạn biết rằng bạn đang uống một tách trà, đó là bạn đang uống trà trong chánh niệm. Khi bạn thở vào mà bạn biết rằng bạn đang thở vào, vì bạn đang tập trung sự chú ý vào hơi thở vào của bạn, đó là bạn đang thở trong chánh niệm. Khi bạn bước một bước chân mà bạn biết rằng bạn đang bước một bước chân, đó là bạn đang bước một bước chân trong chánh niệm. Việc thực hành cơ bản tại các trung tâm thiền, là thực hành để tạo ra năng lượng chánh niệm từng giây phút trong cuộc sống hàng ngày của bạn. Khi bạn tức giận, bạn ý thức được bạn đang tức giận. Bạn ý thức được bạn đang tức giận là vì trong bạn đã có đủ năng lượng chánh niệm mà bạn đã gặt hái được bằng thực tập. Đó là lý do bạn có đủ khả năng để nhận diện, để ôm ấp, để nhìn sâu, và để hiểu được bản chất tự nhiên của sự đau khổ đang có mặt ở trong bạn.

Chẳng những tôi có thể hiểu được bản chất của sự đau khổ tại Việt Nam, mà tôi cũng còn hiểu rằng nhân dân Mỹ cũng phải chịu đựng sự đau khổ đó, giống như người Việt Nam đã phải chịu đựng đau khổ trong suốt thời kỳ chiến tranh Việt Nam vậy. Người thanh niên Mỹ đã được gửi đến Việt Nam để giết và để bị giết, đã phải trải qua rất nhiều đau khổ, và đau khổ đã tiếp tục cho đến ngày hôm nay. Gia đình của họ đau khổ, quốc gia của họ cũng đau khổ. Tôi cũng có thể nhận thấy rằng nguyên nhân của sự đau khổ của chúng tôi tại Việt Nam không phải do các chiến binh Mỹ gây ra, mà là do một chính sách không khôn ngoan. Đó là do sự nhầm lẫn. Đó là do nỗi sợ hãi nằm trên nền tảng của chính sách Mỹ trong chiến tranh Việt Nam.

Nhiều người Việt Nam đã phải tự thiêu để kêu gọi chấm dứt sự hủy diệt này. Họ không muốn gây đau đớn cho người khác, mà chỉ muốn dành sự đau đớn đó cho bản thân của họ, như là một thông điệp gây sự chú ý lên thế giới. Nhưng âm thanh của máy bay và âm thanh của bom đạn đã lấn át, đưa chúng tôi tới tình trạng không có bao nhiêu người nghe được tiếng kêu gọi. Vì thế cho nên tôi quyết định tới Mỹ để kêu gọi chấm dứt sự bạo động. Đó là vào năm 1966. Và vì lý do đó mà tôi bị ngăn cấm hồi hương, phải sống lưu vong kể từ năm 1966.

Tôi đã có thể nhận thức được rằng kẻ thù thực sự của con người không phải là con người. Kẻ thù thực sự của con người là sự thiếu hiểu biết, sự kỳ thị, sự sợ hãi, sự tham ái, và là sự bạo động. Tôi không thù ghét người dân Mỹ, tôi không thù ghét đất nước Mỹ. Tôi đến Mỹ là để cầu xin một cái nhìn sâu sắc, để từ cái nhìn sâu sắc đó, chính phủ Mỹ có thể điều chỉnh lại chính sách của họ. Tôi còn nhớ tôi đã gặp được Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert MacNamara. Tôi đã kể lại cho ông nghe sự thật về đau khổ của người Mỹ và người Việt. Bộ Trưởng McNamara đã giữ tôi lại với ông một thời gian dài để lắng nghe một cách sâu sắc hơn tiếng nói của tôi, và tôi cũng rất biết ơn sự lắng nghe sâu sắc đó của ông. Ba tháng sau, khi chiến tranh trở nên khốc liệt, tôi nghe nói ông đã từ chức.

Hận thù và giận dữ không có ở trong trái tim của tôi. Đó là lý do tại sao tôi đã được nhiều người trẻ trên đất nước của tôi lắng nghe. Tôi ủng hộ họ đi theo con đường hòa giải, và tất cả chúng tôi đã cùng nhau tạo thành một tổ chức tại Paris với mục đích mang tới hòa bình. Tôi hy vọng bạn bè của tôi ở đây tại New York cũng có thể làm như vậy. Tôi hiểu, tôi hiểu sự đau khổ và sự bất công, và tôi cũng cảm thấy tôi hiểu sâu sắc sự đau khổ của thành phố New York tại Mỹ. Tôi cảm thấy tôi là một người New Yorker. Tôi cảm thấy tôi là một người Mỹ.

Tôi [1] muốn có mặt ở đó với bạn, để cùng với bạn, không hành động, bạn sẽ không nói gì khi bạn không bình tĩnh. Có nhiều cách mà chúng ta có thể quay trở về với chính chúng ta và thực hành để tái khám phá lại sự bình tĩnh của chúng ta, sự an lạc của chúng ta, sự sáng suốt của chúng ta. Có nhiều cách mà chúng ta có thể thực hành để hiểu được nguyên nhân thực sự gây ra đau khổ. Và sự hiểu biết đó sẽ giúp chúng ta làm những gì cần thiết, và không làm những gì không cần thiết để có thể gây nguy hại cho chúng ta và cho người khác. Chúng ta hãy thực tập hơi thở chánh niệm nửa phút trước khi chúng ta tiếp tục bài pháp thoại.

Trong tâm lý học Phật giáo, chúng ta nói về ý thức bằng cách dùng từ ngữ hạt giống. Chúng ta có hạt giống của sự giận dữ trong tâm thức của chúng ta. Chúng ta có hạt giống của sự tuyệt vọng, sự sợ hãi. Nhưng chúng ta cũng có hạt giống của sự hiểu biết, hạt giống của trí tuệ, của từ bi và của tha thứ. Nếu chúng ta biết làm thế nào để tưới tẩm hạt giống trí tuệ và từ bi trong chúng ta, hạt giống đó sẽ tự chuyển hóa thành các loại năng lượng mạnh, giúp chúng ta thực hiện được hành động tha thứ và mở được lòng từ bi. Nó có thể mang lại sự êm dịu ngay lập tức cho đất nước của chúng ta, cho thế giới của chúng ta. Đó là niềm tin của tôi.

Tôi tin tưởng một cách mạnh mẽ rằng bạn, một người Mỹ, có rất nhiều sự khôn ngoan và lòng từ bi bên trong trái tim của bạn. Tôi muốn làm một người bạn tốt nhất của bạn khi bạn bắt đầu hành động, vì lợi ích của nước Mỹ, và cũng vì lợi ích của thế giới. Với sự sáng suốt, với sự hiểu biết và với lòng từ bi, bạn sẽ có khả năng quay lại với những người đã gây ra rất nhiều thiệt hại và đau khổ cho bạn, và để bạn có thể hỏi họ rất nhiều câu hỏi.

Chúng tôi không hiểu hết sự đau khổ của quý vị, quý vị có thể cho chúng tôi biết được không? Chúng tôi đã không làm điều gì gây đau khổ cho quý vị, chúng tôi đã không cố gắng tiêu diệt quý vị, không kỳ thị quý vị, nhưng không hiểu tại sao quý vị đã làm như vậy đối với chúng tôi? Có lẽ quý vị là người có rất nhiều đau khổ ở trong quý vị. Chúng tôi muốn lắng nghe quý vị. Chúng tôi có thể giúp được quý vị. Và có thể làm việc cùng nhau với quý vị, chúng tôi và quý vị có thể giúp xây dựng hòa bình trên thế giới.” Và nếu bạn là người có thực tập vững chãi, và nếu bạn có từ bi khi nói lên câu này, họ sẽ cho bạn biết nỗi khổ của họ.

Trong Phật giáo chúng ta nói về thực tập hạnh lắng nghe. Lắng nghe một cách từ bi, là một phương pháp tuyệt vời mà chúng ta có thể khôi phục truyền thông – truyền thông giữa các đối tác, truyền thông giữa cha và con, truyền thông giữa mẹ và con gái, truyền thông giữa các quốc gia. Sự thực tập lắng nghe một cách sâu sắc cần được khích lệ bởi các bậc cha mẹ, bởi các đối tác, do đó họ có thể hiểu được sự đau khổ của người khác. Những người khác đó có thể là những người vợ của chúng ta, là chồng của chúng ta, là con trai hay con gái của chúng ta. Chúng ta có thể có đủ thiện chí để lắng nghe, nhưng nhiều người trong chúng ta đã mất năng lực để lắng nghe, bởi vì những người ấy có rất nhiều sự bực tức và bạo động. Những người ấy đã không biết làm thế nào để nói lời ái ngữ; họ luôn đổ lỗi và phân bua. Ngôn ngữ của họ thường là cay đắng. Ngôn ngữ của họ luôn khơi dậy sự khó chịu và sự giận dữ trong chúng ta, và làm cho chúng ta mất khả năng lắng nghe một cách sâu sắc với lòng từ bi. Tôi nghĩ, tôi tin, tôi có niềm tin, rằng, một người cha, nếu người cha đó biết làm thế nào để lắng nghe con trai của ông một cách sâu sắc, lắng nghe con trai của ông với một tấm lòng từ bi, ông ấy sẽ có thể mở cửa trái tim con trai của ông, để khôi phục truyền thông giữa ông và con trai của ông.

Các dân biểu trong quốc hội và các thượng nghị sĩ cũng nên rèn luyện bản thân trong nghệ thật lắng nghe một cách từ bi và sâu sắc. Trong quốc gia có rất nhiều đau khổ, và nhiều người cảm thấy nỗi đau khổ của họ không được ai biết tới. Đó là lý do tại sao các chính trị gia, các thành viên trong căn nhà lập pháp, các thành viên của quốc hội phải rèn luyện bản thân trong nghệ thuật lắng nghe – để lắng nghe người dân của họ, để lắng nghe những đau khổ trong nước, bởi vì có sự bất công ở trong nước, bởi vì có sự kỳ thị ở trong nước. Có rất nhiều tức giận ở trong nước. Nếu chúng ta có thể lắng nghe nhau, chúng ta cũng có thể nghe những người bên ngoài đất nước của chúng ta. Nhiều người trong số họ đang ở trong một tình trạng tuyệt vọng, vì có nhiều đau khổ, bất công và kỳ thị. Năng lượng bạo động và sự tuyệt vọng trong họ là rất lớn. Và nếu chúng ta biết cách lắng nghe họ trên cương vị của một quốc gia về nỗi khổ của họ, chúng ta có thể mang lại rất nhiều sự dễ chịu cho họ. Họ sẽ cảm thấy rằng họ đang được hiểu. Điều đó có thể dập tắc quả bom trong họ.

Tôi thường khuyên một cặp vợ chồng khi họ giận nhau. Tôi khuyên họ nên trở về với hơi thở chánh niệm của họ, nên đi bộ trong chánh niệm, ôm ấp lấy sự tức giận trong họ, và nhìn sâu vào bản chất của sự tức giận của họ. Và họ có thể chuyển hóa tức giận của họ chỉ trong mười lăm phút hoặc vài giờ. Nếu họ không thể làm điều đó, thì họ nên nói với người bạn đời của họ rằng họ đang đau khổ, rằng họ đang tức giận, và rằng họ muốn người bạn đời hiểu cho họ điều đó. Họ sẽ cố gắng nói một cách bình tĩnh. “Em yêu, anh đang đau khổ, và anh muốn em biết điều đó.” Và ở tại Làng Mai, nơi tôi sống và thực tập, chúng tôi khuyên bạn bè của chúng tôi không nên giữ sự tức giận trong người hơn hai mươi bốn tiếng đồng hồ mà không nói cho người khác biết. “Em ơi, anh đang đau khổ, và anh muốn em biết điều đó. Anh không hiểu lý do tại sao em đã làm một điều như vậy đối với anh.Anh không hiểu lý do tại sao em đã nói một điều như vậy đối với anh.” Đó là điều đầu tiên mà họ cần nói với người bạn đời. Và nếu họ không đủ bình tĩnh để nói với người bạn đời, họ có thể viết vào một mảnh giấy.

Điều thứ hai họ có thể nói hay viết ra là, “Anh đang làm hết sức của anh.” Nó có nghĩa là “Anh đang thực tập không nói bất cứ điều gì, không làm bất cứ điều gì khi anh đang giận dữ, bởi vì anh biết rằng làm như vậy anh sẽ tạo thêm đau khổ. Vì vậy, anh ôm lấy sự tức giận của anh, anh nhìn sâu vào bản chất của sự tức giận của anh.” Bạn nên nói với người bạn đời của bạn rằng bạn đang thực hành quán chiếu sự tức giận của bạn, để hiểu biết sự tức giận của bạn, để tìm xem nếu sự tức giận đó có đến từ sự hiểu lầm của riêng bạn hay không, có đến từ sự nhận thức sai lầm, từ sự thiếu chánh niệm, hoặc từ sự vụng về của bạn hay không.

Và điều thứ ba bạn có thể nói với anh ấy hoặc chị ấy là, “Tôi cần sự giúp đỡ của anh.” Thường thường khi chúng ta tức giận người nào đó, chúng ta muốn làm ngược lại. Chúng ta nói, “Tôi không cần anh. Tôi có thể tự giải quyết bởi chính tôi.” Khi nói “Tôi cần anh giúp đỡ” có nghĩa là “tôi cần anh thực tập, tôi cần anh nhìn sâu, tôi cần anh giúp tôi vượt qua cơn giận bởi vì tôi đang đau khổ.” Và nếu tôi đau khổ, không có cách nào anh có được hạnh phúc, vì hạnh phúc không phải là một vấn đề cá nhân. Nếu người khác đau khổ, không có cách nào bạn có thể thực sự có hạnh phúc cho một mình bạn. Vì vậy, việc giúp đỡ người khác để họ vơi bớt đau khổ, để họ có thể mỉm cười, điều đó cũng sẽ làm cho bạn có được hạnh phúc.

Bụt nói, “Cái này như thế này, vì cái kia như thế kia (this is because that is).” Ba câu mà tôi đề nghị sau đây là ngôn ngữ của tình yêu đích thực. Ngôn ngữ đó sẽ gây cảm hứng cho người khác thực hành, để nhìn sâu, và để cùng nhau, bạn sẽ mang lại sự hiểu biết và hòa giải. Tôi đề nghị bạn bè của tôi viết ra những câu ấy trên một mảnh giấy và nhét vào ví đựng tiền của họ. Mỗi khi họ tức giận người bạn đời của họ, tức giận con trai hoặc con gái của họ, họ có thể thực tập hơi thở chánh niệm, lấy mảnh giấy đó ra, và đọc. Nó sẽ là một tiếng chuông chánh niệm nói với bạn những gì nên làm và những gì không nên làm. Đây là ba câu nói bằng ngôn ngữ tình yêu đích thực: “Tôi đang đau khổ và tôi muốn bạn biết điều đó.” “Tôi đang làm hết sức của tôi.” “Xin giúp tôi.

Tôi tin rằng trong một cuộc xung đột quốc tế, cùng thực tập giống nhau là điều chúng ta có thể làm được. Đó là lý do tại sao tôi đề nghị với nước Mỹ, trên cương vị của một quốc gia, cũng có thể thực tập như vậy. Bạn sẽ nói với những người mà bạn tin là nguyên nhân của sự đau khổ mà bạn phải chịu đựng, rằng bạn muốn họ biết điều đó, rằng bạn muốn biết lý do tại sao họ đã làm như vậy đối với bạn, trong khi bạn thực hành lắng nghe một cách sâu sắc và với lòng từ bi của bạn.

Phẩm chất con người của chúng ta rất quan trọng, bởi vì câu hỏi đó, câu tuyên bố không phải là một sự lên án, nhưng là một sự sẵn sàng tạo ra truyền thông đích thực. “Chúng tôi sẵn sàng lắng nghe quý vị. Chúng tôi biết rằng quý vị đã phải chịu đựng rất nhiều đau khổ nên mới làm một điều như vậy đối với chúng tôi. Quý vị có thể đã nghĩ chúng tôi là nguyên nhân gây ra đau khổ cho quý vị. Vì vậy, xin quý vị vui lòng cho chúng tôi biết nếu chúng tôi đã cố gắng để tiêu diệt quý vị? hoặc chúng tôi đã cố gắng kỳ thị quý vị? để chúng tôi có thể hiểu được. Và chúng tôi tin rằng khi chúng tôi hiểu được nỗi khổ của quý vị, chúng tôi mới có thể giúp đỡ được cho quý vị.” Đó là những gì mà chúng ta gọi là “ái ngữ” hoặc “ngôn ngữ của hiểu và thương” trong đạo Bụt, nó có mục đích tạo ra truyền thông, khôi phục truyền thông. Và khi truyền thông được phục hồi, hòa bình sẽ có thể đạt được.

Mùa hè này, một nhóm người Palestine đến Làng Mai và thực tập cùng chung với một nhóm người Do Thái, họ có tất cả vài chục người. Chúng tôi tài trợ cho họ đến để họ có thể cùng nhau thực tập với tăng thân Làng Mai. Trong hai tuần, họ đã học ngồi thiền với chúng tôi, đi thiền hành với chúng tôi, thưởng thức bữa ăn im lặng với chúng tôi, và ngồi yên lặng để lắng nghe nhau. Họ thực tập rất thành công. Vào cuối tuần thứ hai của khóa thực tập, họ đã cho Làng Mai một báo cáo tuyệt vời. Một phụ nữ nói: “Thầy, đây là lần đầu tiên trong đời của chúng tôi mà chúng tôi tìm thấy hòa bình ở Trung Đông là có thật.” Một thanh niên nói: “Thầy, khi tôi lần đầu tiên đến Làng Mai, tôi không tin rằng Làng Mai là một cái gì có thật, bởi vì trong tình hình của đất nước của chúng tôi, chúng tôi sống trong sợ hãi và tức giận. Khi con của chúng tôi lên xe buýt, chúng tôi không chắc chắn rằng chúng nó sẽ được trở về nhà. Khi chúng tôi đi vào các siêu thị, chúng tôi không chắc chắn rằng chúng tôi sẽ sống sót để trở về với gia đình. Khi chúng tôi tới Làng Mai, chúng tôi thấy mọi người nhìn nhau với lòng từ ái, nói chuyện với nhau một cách vui vẻ, đi bộ một cách hài hòa, và tất cả mọi việc đều được làm trong chánh niệm. Chúng tôi không tin rằng chúng tôi có thể làm được như vậy, vì đó là những gì không thực tế đối với chúng tôi.”

Nhưng trong khung cảnh yên bình của làng Mai, họ đã có thể thực tập ở bên nhau, sống chung với nhau, và để lắng nghe nhau, và cuối cùng thự sự hiểu biết đã đến. Họ hứa rằng khi họ trở về Trung Đông, họ sẽ tiếp tục thực tập. Họ sẽ tổ chức một ngày thực hành mỗi tuần ở cấp địa phương và một ngày chánh niệm ở cấp quốc gia. Và họ có kế hoạch đến Làng Mai với một nhóm lớn hơn để tiếp tục thực hành thương yêu và hiểu biết.

Tôi nghĩ rằng nếu các quốc gia như là nước Mỹ có thể tổ chức ở một nơi mà mọi người có thể tới với nhau và dành thời gian thực tập hòa bình với nhau, sau đó họ sẽ có thể làm cho bình an cảm xúc của họ, làm cho bình an nỗi sợ hãi của họ, và sự thương thuyết hòa bình sẽ đến với họ một cách dễ dàng hơn nhiều.

Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
(Duyên Sinh chuyển ngữ)

_____________________

Ghi chú:
[1] Người chuyển ngữ đổi chữ “You” ra chữ “I” trong bản tiếng Anh trong khi chuyển ngữ



Chuyên mục:Nhân vật - Sự kiện

Thẻ:,

Bình luận về bài viết này

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.