Thích Nguyên Đạt (1993): Lại Vấn Đề Tổ Chức Trong Đạo Phật

Lời thưa: Từ thâm nhập “Thông điệp Ý Thức Về Nguồn 1971 đến Tuyên Cáo II 1993 của GHPGVNTN”[1] của Nguyên Tường (Phạm Công Thiện), đã gợi nhắc cho chúng ta hai văn bản quan trọng đó là bài lịch sử “Hình Thái Tổ Chức Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam”, trích từ tác phẩm “Đạo Phật Trong Dòng Sử Việt”[2] của cố Hòa Thượng Thích Đức Nhuận (1924-2002), cũng như bài tiểu luận còn mang tính thời sự của Hòa Thượng Thích Phước An, “Một Vài Suy Nghĩ Về Hệ Thống Tổ Chức Của GHPGVN”[3], mà tôi nghĩ đến đây chúng ta có thể gút lại vấn đề một cách tổng thể, và cụ thể với bài tham luận còn nguyên giá trị này: “Lại Vấn Đề Tổ Chức Trong Đạo Phật”, của Hòa Thượng Thích Nguyên Đạt, đăng trên tạp chí Nghiên Cứu Phật Giáo và sáng tác Hoa Sen, số 19, tháng Năm, 1993. Những ý tứ gởi gắm trong văn bản này, trải qua hai thập kỷ, thuyết minh từ lời Phật nguyên thủy, vẫn có chút lợi lạc nào chăng cho hoàn cảnh Giáo Hội bây giờ, khi mà ít nhiều trong những ngày qua Tứ Chúng Phật Tử thay vì suy nghiệm về những điều tương tự được gợi ý như ở đây nhiều hơn thì có vẻ là chỉ đang trông cậy vào một bậc Thầy

Tôi nhớ ngay từ những ngày đầu đảm nhận vai trò Phó Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, bấy giờ Gia đình Phật tử hải ngoại nhiều anh chị em hay liên lạc về Thầy Tuệ Sỹ để thỉnh ý, việc lớn có việc nhỏ có. Tất nhiên thực tế thì cũng có quấy nhiễu thời gian, không gian thanh tịnh của bậc tu hành và nhất là công việc phiên dịch kinh tạng, nhưng Thầy chưa bao giờ làm ngơ, mà ngược lại rất ân cần. Song, khi được anh chị lớn liên lạc thường xuyên và thỉnh ý nhiều công việc như vậy, thì một hôm Thầy viết email sang. Trong email Thầy có nói: “Tuy anh chị luôn xem tôi là một vị Thầy, nhưng tôi không thể cột tay anh chị mà dẫn đi được.” Câu nói này tuy chỉ dành cho anh chị em Gia đình Phật tử, nhưng phải chăng là tất cả. Và phù hợp ở mọi không gian, thời gian? Thật ra ý này cũng đã có trong lời Phật dạy chúng đệ tử từ bao nghìn năm trước. Qua đó là khẳng định tính độc lập trong mọi sinh hoạt của anh chị em đối với Thầy.

Vậy thì tôi vẫn nghĩ, chúng ta trước cần hiểu Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất là gì? Đã đóng góp chi cho giềng mối Đạo Pháp, cho tiền đồ Dân tộc? Hiểu cặn kẽ “Thống Nhất” như thế nào. Từ đó chúng ta thực hiện tâm nguyện của Đức Đệ Ngũ Tăng Thống là Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ. Nghĩa là chúng ta thấy bổn phận của mình xuyên qua Chúc Thư đó để góp sức mình hỗ trợ đại phật sự đó thành tựu, hỗ trợ Thầy Tuệ Sỹ. Ở đây hoàn toàn không phải do vị nể, hoặc vị kỷ, thiên kiến bất cứ vị nào.

Ngẫm sâu, nếu là người quan tâm, từng theo dõi diễn trình pháp nạn vừa qua, chúng ta thấy đỉnh điểm ban hành Giáo Chỉ số 2  (2005), để loại ra hết những bậc Thầy luôn cố gắng gìn giữ cho hình ảnh Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất với hành trạng lịch sử như nhất 2500 năm, hòng chiếm lĩnh diễn đàn để đạt đến mục đích chính trị thế tục, phải chăng nó xảy ra không lâu sau ngày Viện Hóa Đạo công bố BẠCH THƯ[4] mà chính Bạch Thư này đã xác định minh nhiên vị thế lịch sử của Giáo Hội trong lòng dân tộc và quốc tế. Là sự chính nghĩa qua lập trường hoằng hóa độ sanh của Giáo Hội Lịch Sử mà có sự ủng hộ rộng lớn của quần chúng chứ không phải là từ thành quả vận động chính trị ồn ào nào hết. Đồng nghĩa, nó làm tan vỡ giấc mộng “công thần” của kẻ tham vọng mưu hoạt đầy quyền năng muốn đẩy Giáo Hội theo một lộ trình chính trị thế tục, đầy cạm bẫy.

Ở đây tôi cũng xin phép phổ biến lại Bạch Thư này, độc giả khi đặt mình trong bối cảnh lịch sử ngày đó từ hai văn kiện quan trọng của Quốc Hội Hoa Kỳ[5] và Âu Châu[6], rồi tham khảo Bạch Thư của Viện Hóa Đạo; liên kết với những văn bản tôi nhắc ở đầu, để thấy đâu là ý nghĩa chân thật. Và tương lai Giáo Hội, một Giáo Hội có thống nhất đúng nghĩa hay không, rồi thực hiện được sứ mệnh dẫn đường lịch sử hay không, chính là từ chỗ thấy chân thật này.

Nam Mô Thường Hoan Hỷ Bồ Tát Ma Ha Tát.

 

Cuộc họp ngày 31 Tháng Chạp năm 1964 tại chùa Xá Lợi, Sài Gòn,
thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
Hòa thượng Thích Tịnh Khiết được suy tôn làm Tăng thống.
Thượng tọa Thích Tâm Châu được bầu vào chức vụ Viện trưởng Viện Hóa đạo
và Thượng tọa Thích Trí Quang giữ chức Tổng Thư ký Viện Tăng thống.
Chùa Ấn Quang tại Sài Gòn được chọn làm trụ sở sinh hoạt của Giáo hội.
(Ảnh tư liệu do Trần Trung Đạo cung cấp)

____________________________

Nhiều người chúng ta quá lý tưởng về một tổ chức Phật giáo bao gồm các đơn vị tổ chức Phật giáo khác nhau. Chúng ta há mong nhiều chùa, nhiều tự viện, nhiều hội, nhiều cộng đồng Phật giáo các địa phương thành một tổ chức, một giáo hội gọi là THỐNG NHẤT Phật giáo.

Có lẽ, một phần, chúng ta chịu ảnh hưởng những phong trào tổ chức bên ngoài đạo Phật và phần khác, do GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẬT cao đẹp của chúng ta trong quá khứ tại quê nhà, đã tạo cho chúng ta những ấn tượng tốt lành. Hình ảnh GHPGVNTN sau năm 1963 đó đã thúc giục chúng ta muốn thành đạt một mô thức như thế trong cộng đồng Phật giáo Việt Nam hải ngoại, mặc dù cũng đang ở trong những hoàn cảnh mới khác biệt, tâm lý quần chúng, văn hóa dị biệt đối với quê hương Việt Nam. Vấn đề thống nhất các tổ chức Phật giáo địa phương thành một tổ chức duy nhất lúc nào cũng được đề cập trong quá khứ và có lẽ vấn đề nầy vẫn còn là một đề án chưa được giải quyết?

Thực sự, một hình thức tổ chức Phật giáo Việt Nam hải ngoại, thống nhất bao gồm hết các đơn vị tổ chức Phật giáo Việt Nam ở các địa phương khác nhau như thế, liệu có phản ảnh trung thực một tổ chức thống nhất hải ngoại để lãnh đạo và thực hiện các Phật sự tại các địa phương, hợp với hoàn cảnh mới không? Trong xã hội nầy, bất cứ tổ chức nào của Phật giáo lớn hay nhỏ đều có giấy phép sinh hoạt và bình đẳng trước luật pháp quốc gia. Mỗi đơn vị tổ chức Phật giáo đã có sẵn pháp nhân, pháp lý và tự do sinh hoạt tùy theo khả năng lãnh đạo của chư tăng, trách nhiệm của các vị cư sĩ hữu tâm và hoàn cảnh, nhu cầu tinh thần của quần chúng Phật tử. Việc tổ chức thành lập một giáo hội THỐNG NHẤT bao gồm các đơn vị các tổ chức Phật giáo các địa phương như thế, chúng ta chỉ dựa trên những tổ chức có sẵn pháp lý và đặt để ra một số lý thuyết, nguyên tắc, điều lệ, nội quy, danh xưng bao trùm. Còn thực tế, mọi tổ chức địa phương phải tự túc hành chánh, tài chánh, đảm trách mọi Phật sự. Hơn nữa, trong xã hội tự do sinh hoạt bình đẳng, không có một thứ nguyên tắc tập quyền nào có thể áp dụng và không có khả năng tài chánh nào đủ sức để chi phối cũng như không có một thứ tình cảm riêng tư nào để thuyết phục lôi cuốn mọi tổ chức thành những thành viên nòng cốt, sống chết cho một danh xưng to lớn, chỉ trừ tổ chức danh xưng to lớn đó là tác phẩm trung thực trong nổ lực của mọi tổ chức và được điều khiển phát triển của những cá nhân đại diện lỗi lạc và đạo hạnh.

Một tổ chức Phật giáo thống nhất muốn được thành tựu, nó còn phải dựa trên truyền thống tổ chức của đạo Phật đã có sẵn từ những nghìn năm lịch sử mà kinh điển thường đề cập và gương sáng của đức Bổn Sư. Bốn tổ chức căn bản của Phật giáo được đức Phật ấn định từ khởi thủy của đạo Phật, đó là tổ chức Tỳ Khưu (có Sa di), tổ chức Tỳ Khưu ni (có Sa di ni), tổ chức nam cư sĩ Phật tử và tổ chức nữ cư sĩ Phật tử. Tại sao đức Phật lại phân định ra bốn thành phần tổ chức như thế ngay từ lúc giáo hội ngài mới thành lập? Tại sao ngài không gom lại các thành phần nhân tố đó thành một tổ chức THỐNG NHẤT, to lớn ngay từ đầu, dưới quyền lãnh đạo tối thượng của ngài? Đức Phật là bậc đạo sư, ngài xuất hiện ra đời chỉ dạy chúng sinh con đường xả ly những danh lợi, nhưng danh xưng phù ảo để bồi đắp bản ngã vị kỷ, ngã tập thể, ngã cá nhân. Giáo lý ngài chỉ dạy không chấp thủ, không tranh chấp, xa rời những quyền hành, quyền lực, những phạm trù ý thức, tư tưởng, những hình tướng “phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng…” để dẫn đến sự tự tại tự do giải thoát phiền não ràng buộc của nội tâm. Đức Phật có phương tiện phân định ra bốn tổ chức là để nhằm vào việc giảng dạy giáo pháp của ngài cho từng căn cơ, trình độ giáo dục, tâm lý, chủng tính, chức năng của nhân sinh khác nhau. Bốn tổ chức Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di tuy có đời sống vật chất lao động, sản xuất, tiêu dùng ăn uống, ngủ nghỉ, thưởng thức tương đối giống nhau, nhưng đời sống tâm linh, khả năng đạo đúc trí tuệ, giới luật, chức năng khác nhau. Tổ chức Nam Phật tử có khác tổ chức Nữ Phật tử “Thiện nam tín nữ”. Giới luật của tăng và ni chênh lệch nhau. Thực sự, trong mỗi một thành phần tổ chức, chẳng hạn nữ Phật tử, tự nội bộ cũng đã có nhiều khác biệt giữa các cá nhân về tâm lý, giáo dục, chức năng, nghiệp lực. Tổ chức của Tăng, của Ni, của Nam Phật tử cụ sĩ cũng thế. Nhiều trường phái Phật giáo ra đời trong thời kỳ đạo Phật phát triển mạnh mẽ tại Ấn Độ cũng như khi truyền sang các nước khác, nói lên nhiều khuynh hướng tâm lý quần chúng thế  giới đến với đạo Phật. Trung Hoa có mười tông phái, Nhật Bản có mười một tông phái. Tây Tạng có phái Hồng Mạo và Hoàng Mạo. Phật giáo các quốc gia theo hệ Nam truyền có hàng xuất gia và tại gia bạch y. Phật giáo Việt Nam có đại thừa và tiểu thừa Phật giáo, rồi thiền tông, mật tông, tịnh độ tông v.v… Giờ đây, các quốc gia Tây phương, Âu Mỹ tiếp thu các hình thái Phật giáo từ nhiều nẽo đường Á Châu đến và phát triển đưới nhiều hình thức tổ chức khác nhau để cung ứng cho nhiều thành phần dân chúng. Theo các tài liệu Buddhism in America của tác giả người Nhật Bản, ông Tetsuden Kashima, được xuất bản tại Hoa Kỳ vào năm 1977 và Buddhism in America, tác giả bà Emma McCloy Layman, là giáo sư đại học về nghành Tâm lý, xuất bản vào năm 1976 và được in lần thứ nhì năm 1978, cho thấy rằng nhiều tổ chức Phật giáo được thành lập khắp đó đây trên nước Mỹ: Buddhist Association of the United States, Buddhist Churches of America, Buddhist Society of Denver, Monasteries, Budđhist in the United States, Zen Center, San Francisco, Zen Mission Society, Zen Studies Sociecty, New York, Buddhist Church of San Francisco, Buddhist Church of Sacramento, Seattle Buddhist Church, Petsuin, Arizona Buddhist Church (Ari?), Buddhist Temple of Utah – Idaho, Ft. Lupton Buddhist Church (Colo.), Twin Cities Buddhist Assocciation (Minn.), Washinpton, D.C, Sangha, Cleveland Buddhist Church (Ohio) v.v…

Đề cập đến tổ chức Phật giáo, có quốc gia Phật giáo nào, có được một tổ chức Phật giáo thống nhất thực sự quy tụ tất cả các hệ phái không? Ngay cả sự hiện diện của các quốc gia Phật giáo Á Châu ở Mỹ cũng có nhiều sắc thái khác nhau. Tổ chức của Vạn Phật Thành ở San Francisco không giống tổ chức của chùa Tây Lai ở miền Nam California v.v… Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất của chúng ta tại Việt Nam ra đời sau năm 1963 là kết quả trong bối cảnh lịch sử của đất nước hết sức đặc biệt. GHPGVNTN lúc ấy được quy tụ hầu hết mọi thành phần tổ chức Phật giáo và dân tộc để thực hiện vai trò lịch sử và sau đó GHPGVNTN tỏa ra nhiều dạng thức để chuyên chở các sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo, nghệ thuật, triết lý, văn hóa, và tất cả những sinh hoạt này khi dân tộc lâm nguy, chúng trở thành một lực lượng, một tổ chức để biểu lộ tinh thần hùng lực vô úy của dân tộc Việt Nam, đến lúc bình, chúng ngấm sâu vào sức sống của dân tộc. Tổ chức Phật giáo bàn bạc trong sinh hoạt nhân gian Việt Nam nên không có kẻ thù nào chống phá hay tiêu diệt Phật giáo nổi. Làm sao chính thể Cộng sản Việt Nam tiêu điệt được Phật giáo Việt Nam, tiêu diệt thế nào được tất cả những tổ chức Phật giáo ỏ dưới nhiều hình thức khác biệt? Thật hời hợt mà cho rằng Phật giáo bị tiêu diệt dưới ách Cộng sản Việt Nam. Sự thực, chính quyền Cộng sản Việt Nam chỉ đập vào cái danh xưng tổ chức GHPGVNTN, chiếm đoạt các cơ sở tôn giáo, văn hóa giáo dục, áp bức các thành phần lãnh đạo của tổ chức. Còn thực thể Phật giáo Việt Nam ở niềm tin, lẽ sống đạo giáo, tình tự tín ngưỡng dân gian, văn hóa nghệ thuật, triết lý lập quốc khai phóng lâu đời của một dân tộc Việt Nam ảnh hưởng sâu đậm của Phật giáo vẫn còn đó! Còn một cách hiên ngang và thách thức với thời gian không gian, với mọi thế lực phi dân tộc qua Thành đô Chiền tháp. Gạt bỏ Phật giáo Việt Nam, dân tộc Việt Nam làm thế nào tồn tại, phát triển trong quá khứ và hãnh điện với các quốc gia trên thế giới? Tổ chức Phật giáo phân ra nhiều ngã đường để cung ứng cho nhiều thành phần dân tộc, nên đã tạo nên sức mạnh vô hình vô tướng, phù hợp với giáo lý duyên sinh, vô thường, vô ngã, không đứng trụ mà linh hoạt thong dong như mây trời có rồi không và không rồi có tùy theo bối cảnh lịch sử. Chính Phật giáo không có một tổ chức bao quát nào nhất định, không có một giáo quyền nào, nên không bị sức đối kháng hay triệt tiêu nào từ bên ngoài Phật giáo. Đề cập đến tổ chức Phật giáo là đề cập đến nhiều hệ phái, nhiều tổ chức, nhiều giáo hệ khác nhau, là trăm hoa đua nở để tô thắm cuộc đời, để sáng tạo, chế biến, thích nghi với mọi sự vật duyên sinh và hòa nhịp với những trào lưu tiến hóa của xã hội con người. Mới nhìn vào, hình như Phật giáo có quá nhiều tổ chức riêng rẽ, lỏng lẻo, nhưng kỳ thực những tổ chức riêng rẽ lỏng lẻo đó làm cho Phật giáo tồn tại và phát triển một cách sâu sắc khoa học. Tổ chức Tăng Tỳ Kheo làm trang nghiêm giáo hội theo giới luật hành trì của tăng tỳ kheo; Tổ chức Ni đóng góp cho giáo hội với khả năng của tổ chức Ni tỳ kheo và tổ chức Cư sĩ tại gia làm tiềm lực cho Phật giáo bằng khả năng của hàng cư sĩ tại gia. Hệ phái thiền có sức Sáng tạo và mang lại sinh lực cho Phật giáo. Tông phái tịnh – mật có sức thu hút những tâm hồn ngưỡng cầu chân lý và sống đạo. Phật giáo đại thừa có sức quyền biến để phát huy tư tưởng triết lý của Phật giáo. Phật giáo Nam tông giữ truyền thống cốt cách của nguồn mạch Phật giáo v.v… Tất cả đều trưng bày hương sắc cho mọi trình độ nhân sinh “khế cơ”. Thế thì một tổ chức Phật giáo Thống Nhất Việt Nam hải ngoại chủ trương quy tụ, dung chứa các đơn vị tổ chức Phật giáo Việt Nam khác nhau liệu có khả năng về mọi mặt để lãnh đạo phong trào Phật giáo, truyền bá chánh pháp cho cộng đồng Phật tử Việt Nam hải ngoại đang đứng trước những mối quan hệ về nền hòa bình, về chính trị, xã hội, nhất là kinh tế trong thế kỷ 21 sắp đến không? Tổ chức Phật giáo Việt Nam, theo tôi, không cần phải gom lại dưới đanh nghĩa, theo một mô thức nhất định có tính cách hành chánh gò bó nào, mà nó phải được phân bủa ra để chuyên chở những nhu cầu cũ lẫn mới. Điều này rất hợp lý khi chúng ta đang sống trong thời đại xã hội khoa học kỹ thuật thực dụng, thứ nào ra thứ ấy, chuyên môn và chuyên môn. Tổ chức Tăng Tỳ Kheo không là tổ chức Ni Tỳ Kheo, nhưng ngày nay chúng ta tạm thu xếp thành một tổ chức xuất gia. Đối với người Tăng sĩ Phật giáo, chính ý nghĩa tăng già, chúng ta đã có sẵn một tổ chức mà đức Bổn Sư đã quy định từ buổi sơ khai thành lập giáo hội, dựa trên sự thanh tịnh và hòa hợp để tu tập và hoằng pháp. Chỉ có điều là mỗi cá nhân tăng sĩ chúng ta phải kiện toàn tổ chức bằng ý thức tự nguyện tự giác và khơi dạy cho kẻ khác cũng ý thức như thế và khuyến khích, nâng đỡ để đưa trình độ giáo dục về đạo học và thế học của các cá nhân tăng sĩ còn yếu kém lên. Tổ chức Tăng già khác hẳn với các tổ chức ngoài Phật giáo ở bản chấp và đường hướng. Tổ chức Tăng già dựa trên sự thanh tịnh giải thoát cá nhân, tập thể, thanh tịnh cộng nghiệp và góp sức làm lợi ích cho nhân sinh mà không dính mắc những thành quả. Không ai bảo ai, mỗi tăng sĩ tự đặt mình trong giáo pháp để tu tập và phục vụ là đã có một sự liên hệ chặt chẽ, một tổ chức không mang tên. Đối với việc thành lập một tổ chức to lớn, phải đâu đức Phật, ngài không biết và quan tâm đến? Ngài còn tường tận đặc điểm và sự khả dụng của một tổ chức bao quát to lớn gấp vạn lần sự hiểu biết đối với sự hiểu biết của chúng ta, vì ngài là giáo chủ một tôn giáo lớn, là thầy đứng đầu của 1250 đệ tử A la Hán Trí Tuệ, rồi lãnh đạo hàng vạn vạn người, rồi cả khối tứ chúng gồm những thành phần đệ tử vua chúa, quí tộc, trưởng giả giàu có, những bộ óc thông minh bác học tử hàng ngoại đạo, đến hạng nghèo khổ, ngu đốt cùng đinh và toàn thể tín đồ của ngài khắp các miền Trung Châu đô thị cũng như làng quê xứ Ấn Độ thời ấy. Ngài đã có kinh nghiệm một cách sâu sắc về một tổ chức, một giáo hội lớn, làm sao ngài không thấu đáo về vai trò của một tổ chức, tổ chức hàng ngũ chúng đệ của ngài? Cộng đồng tăng già được tập trung rộng lớn mà đức Phật vừa là người đầu não của giáo hội, của tổ chức, vừa là bậc đạo sư trực tiếp xét xử và phân giải mọi trường hợp xảy ra giữa các cá nhân tỳ kheo với tổ chức. Chứng tỏ điều nầy, đức Phật có đủ yếu tố về uy tín, quyền hành, tài chánh, nhân sự, kế hoạch, cơ hậu để tổ chức một tổ chức Phật giáo to lớn từ buổi bình minh của đạo Phật; ngài có thừa sức, vượt lên trên gấp muôn vạn lần chúng ta để thành hình một giáo hội bề thế, làm nhà lãnh tụ lừng lẫy cho một tổ chức Phật giáo để đương đầu với bối cảnh tôn giáo thần quyền, xã hội bất bình đẳng của Ấn Độ thời ấy mà đạo ngài là một lực lượng tư tưởng, triết lý hoàn toàn đối nghịch với các tôn giáo độc tôn, xã hội bất công nghiệt ngã đó.

Cuộc họp ngày 31 Tháng Chạp năm 1964 tại chùa Xá Lợi, Sài Gòn
(Ảnh tư liệu do Trần Trung Đạo cung cấp)

Thế nhưng ngài không đi con đường bành trướng giáo hội ngài bằng ngã sức mạnh của tập thể, của tổ chức. Làm như thế chỉ tạo nên sự tranh chấp từ bên ngoài và bên trong nội bộ bằng quyền lực thô bạo, không phản ảnh được đường hướng chân chính và mục tiêu giải thoát an lạc và mai sau tạo ra cho đạo ngài tiền lệ tổ chức dựa trên sức mạnh tập thể với quyền lực tranh chấp, nhất là tổ chức lọt vào tay những đồ đệ chưa thoát khỏi tham vọng. Từ đó dẫn đạo ngài băng hoại. Đạo ngài đi trên con đường tổ chức lòng người, tổ chức tâm linh, khai mở cho chúng sinh, nhân quần xã hội bằng ánh sáng trí tuệ, tình thương yêu muôn loài chúng sinh, tinh thần bình đẳng. Đạo ngài không chủ trương một tổ chức trung ương tập quyền không giáo quyền và giáo điều, nên đạo ngài là con đường thênh thang không ai tranh đoạt và thắng nổi.

Trong hoàn cảnh địa dư quá rộng lớn của Ấn Độ, Phật cho thành lập nhiều cộng đồng tăng già, nhiều tổ chức tăng sĩ ở các địa phương khác nhau, và hệ thống giáo hội tăng già của Phật trở thành tổ chức dựa trên nguyên tắc bình đẳng, dân chủ tự nguyện, tự giác, không có tập quyền. Tổ chức của ngài có tính cách chuyên chở, diễn dịch và thể nghiệm sự cao quý của giáo pháp mà mọi tổ chức cộng đồng tăng già các địa phương khác nhau hay hàng cư sĩ đều hướng vào đó như một gương sáng. Tổ chức của ngài không phải là thứ tổ chức bắt mọi người phải tuân phục những nguyên tắc khô cứng, giáo điều điều lệ, nội quy gượng ép và phục tùng hay hứa hẹn các cái. Nguyên tắc căn bản mà đức Phật chủ trương, để tổ chức các cộng đồng tăng sĩ ở các địa phương, là pháp Yết Ma, là nguyên tắc dựa trên nghiệp của hàng tỳ kheo xuất gia, là thanh tịnh cộng nghiệp. Thanh tịnh cộng nghiệp dựa trên thanh tịnh cá nhân, sống độc thân, hành trì Giới luật và hy sinh phục vụ chúng sinh. Tập quyền của đoàn thể tăng già là gì? là giới luật mà đức Bổn Sư là nguồn mạch, là linh hồn của tập quyền, của giáo hội, của tổ chức Phật giáo thời ấy. Trong luật tạng Tỳ kheo được mô tả rõ ràng “… Hệ thống tổ chức tăng đoàn của đức Phật dựa trên nguyên tắc dân chủ, không tập quyền, do đó các tăng đoàn địa phương sống và sinh hoạt như những cộng đồng tự trị, không bị chi phối bởi một cộng đồng trung ương tối cao nào cả. Đời sống của một vị tỳ kheo là đời sống khônggia đình, đi hay ở đâu tùy sở thích, tùy nhu cầu hành đạo và hóa đạo riêng biệt của mình, chứ không bị buộc chặt vào bất cứ một cộng đồng nào, vì vậy một tỳ kheo trong giờ trước đang ở tại CƯƠNG GIỚI nầy thì thuộc về cộng đồng tăng lữ nầy, nhưng trong giờ sau vị ấy bước sang cương giới khác thì đã là thành viên của cộng đồng tăng lữ đó và phải chấp hành các nghĩa vụ cũng như hưởng thọ các quyền lợi ở cộng đồng đó. Do tính cách di động nầy mà mặc dù tăng đoàn được chia nhỏ thành nhiều tăng đoàn cộng đồng địa phương khác nhau với những sinh hoạt tự trị khác nhau, không có trung ương chi phối, nhưng tất cả đều sinh hoạt nhịp nhàng theo những QUI TẮC chung, khiến một tỳ kheo từ nơi nầy sang nơi kia, không bị bối rối và sinh hoạt thường nhật của người xuất gia không hề bị gián đoạn. Tất cả các cộng đồng địa phương như vậy trong vô hình tạo thành một cộng đồng THỐNG NHẤT, đó là cộng đồng đệ tử xuất gia của Phật” (Theo luật tỳ kheo, pháp Yết Ma, tập I trang 46, 47 của cố Hòa Thượng Thích Trí Thủ). Ở đây ta lưu ý các từ của đoạn văn luật tỳ kheo, đó là CƯƠNG GIỚI, QUI TẮC, THỐNG NHẤT. Cương Giới là lãnh vực địa dư mà cũng là sự hội nhập, sự hòa hợp… Qui Tắc là tinh thần dân chủ, bình đẳng, tự nguyện tự giác… Thống Nhất là cùng hành động cùng đường lối, cùng mục tiêu, lý tưởng, tự độ mà độ tha v.v…

(Ảnh tư liệu do Trần Trung Đạo cung cấp)

Một khi chúng ta không lãnh hội được ý thức tổ chức một tổ chức Phật giáo Thống Nhất đích thực theo truyền thống và hoàn cảnh xã hội ngày nay, mọi cơ cấu tổ chức đều dựa trên chuyên môn, phân quyền phân nhiệm, đồng nhất tính, thì không nên cố gượng ép, cố vá víu và tốn biết bao thì giờ công sức, tiền của để tổ chức một tổ chức chỉ có danh xưng trong ý đồ dùng danh xưng ấy cho những mục tiêu không chính đáng, nhất là tranh giành ảnh hưởng, đặc biệt ảnh hưởng chính trị quyền lợi cá nhân, phe nhóm, những tham vọng, những mưu đồ ở sau lưng của tôn giáo Phật giáo hay là tổ chức chỉ có danh tướng nỡm.

Ý thức được như thế, tất cả chúng ta đều bình tĩnh và nổ lực tìm kiếm một phương thức nào đó, tạm chấp nhận được trong hoàn cảnh hiện tại để chúng ta vừa khai triển tinh thần truyền thống của đức Phật là vị đạo sư đã hướng dẫn tổ chức ngài có một lịch sử dài rộng hơn tất cả các tổ chức khác từ xưa đến nay và thích ứng với xã hội hiện đại để thổi vào Phật giáo một sinh lực khác nữa, đồng thời gói ghém được hoài bảo của mọi chúng ta trong vai trò lãnh đạo tinh thần quần chúng Phật tử. Chẳng hạn, trước hết chúng ta bỏ qua một bên các hình thức tổ chức lâu nay mà chúng ta bị vướng bận về nguyên tắc hành chánh, danh xưng, chức vị, chức tước, bầu bán, nội quy, điều lệ, hội thảo v.v… và làm thế nào mỗi năm hay hai năm một lần, chúng ta tạo được những cuộc gặp gỡ đạo tình thân mật lẫn nhau nhân mùa Phật Đản, Hiệp Kỵ hay Vu Lan, kiết hạ v.v… Từ đó chúng ta thăm nom, trao đổi, chia sẻ những Phật sự các địa phương, những mối liên hệ cần thiết. Rồi cũng từ không khí đùm bọc thân tình đạo vị đó, chúng ta cung thỉnh một vị tăng, mà tất cả chúng ta đều chấp thuận, thay chúng ta liên lạc và theo dõi Phật sự các địa phương, nhất là những địa phương gặp nhiều khó khăn về điều kiện hoằng pháp v.v… Nếu mọi việc tiến triển tốt đẹp, sự họp mặt của chư tăng lại diễn ra tùy theo thời gian không gian đã được đa số ấn định. Vị tăng thay chúng ta để liên lạc Phật sự các địa phương, không hẳn phải lớn tuổi, cao lạp, miễn có tinh thần phục vụ, đạo hạnh. Sự họp mặt đạo tình chia sẻ như vậy tránh đi những hình thức tổ chức nặng nề về các nguyên tắc nội quy, hình thức tổ chức không thực tiễn, tình trạng ngày càng phân hóa. Kết quả đó may ra đưa chúng ta trở về ít nhiều với truyền thống tổ chức của đạo Phật, mà không dẫm lên vết chân tình trạng phân hóa của các tổ chức thế gian, lại phù hợp với tâm lý các cộng đồng Phật giáo địa phương, đồng thời chuẩn bị hay nói đúng hơn nuôi dưỡng một lực lượng tinh thần rộng lớn để thích ứng hay đối phó với mọi hoàn cảnh. Lực lượng tinh thần đó nối kết keo sơn lẫn nhau một cách sâu sắc, không tổ chức mà hóa ra tổ chức, không nguyên tắc, bất thành văn, là một thực thể Phật giáo thống nhất từ ý chí, hành động và chí nguyện cao cả.

Nếu không, mọi chúng ta mãi lẩn thẩn với danh xưng, với chức quyền vô ích mà bỏ mất những cơ hội, và đầu óc chứa đầy bóng mờ vọng tưởng, và từ đó thiếu cái nhìn sâu sắc những tháng ngày sắp tới cho một đạo Phật Việt Nam hải ngoại hướng đến thế kỷ 21 với những thế hệ con em Phật tử Việt Nam cần đến ánh sáng giác ngộ, từ bi và thực dụng.

THÍCH NGUYÊN ĐẠT
Phật Đản 2537

 

_____________________________________

Phụ bản

 

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
VIỆN HÓA ĐẠO

BẠCH THƯ

về Nghị Quyết 427 của Quốc Hội Hoa Kỳ (thông qua ngày 11/19/2003)
& Nghị Quyết của Quốc Hội Âu Châu (thông qua ngày 20.11.2003)

Theo công bố của Văn phòng Quốc Hội Hoa Kỳ, ngày 19 tháng 11, Hạ Nghị Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu thuận 409, phản đối 13, Nghị Quyết 427 bảo trợ bởi Bà Loretta Sanchez, dân biểu Bang California, đồng bảo trợ 22 Dân biểu. Nội dung Nghị Quyết: “Bày rỏ cảm tình của Viện Dân biểu Hoa Kỳ đối với ban Chỉ đạo dũng cảm của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, và yêu cầu khẩn thiết cho tự do tôn giáo và các quyền con người liên hệ tại nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”

Tiếp theo đó, kể từ ngày 20 tháng 11, 2003, hầu hết các báo chí, đài phát thanh và truyền hình trong nước đã lên tiếng phản đối Hoa Kỳ chen vào công việc nội bộ của Việt Nam, cũng như khẳng định “đường lối trước sau như một của Đảng và Nhà nước luôn luôn tôn trọng tự do tín ngưỡng.”

Vì Nghị Quyết liên hệ đến Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, do đó, Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo thấy cần phải bày bỏ quan điểm và lập trường của Giáo Hội để Tăng Ni, Phật tử, cùng đồng bào trong và ngoài nước có cơ sở tham chiếu, ngoài quan điểm đơn phương của các phương tiện truyền thông đại chúng Việt Nam dưới sự kiểm soát của Nhà nước Cộng sản.

Trước hết, việc đệ trình Quốc Hội Hoa Kỳ hay thông qua Nghị Quyết bởi các Dân biểu Hoa Kỳ, đó là vấn đề nội bộ của Hoa Kỳ. Hội Đồng Lưỡng Viện, cũng như Ban Chỉ đạo Viện Hóa Đạo không có thẩm quyền hay tư cách gì để can thiệp.

Tuy nhiên, trong phát biểu của mình trước Quốc Hội, khẳng định lý do Nghị Quyết 427 được đệ trình, Bà Dân biểu Loretta Sanchez nói rõ: “Tôi đại diện cho cộng động người Việt lớn nhất ngoài Việt Nam trên thế giới, tại Quận Cam, bang California.” Chúng ta biết, sau 1975, khi chế độ Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ, một số lớn đồng bào miền Nam đã rời bỏ quê hương tị nạn tại nhiều nước trên thế giới. Ngày nay, họ là công dân của những nước đã cưu mang họ, hưởng quyền lợi và có các bổn phận như các công dân thuộc các cộng đồng khác. Một trong các bổn phận căn bản là đóng thuế. Một trong các quyền lợi căn bản là sử dụng lá phiếu để quyết định Chính quyền.

Dù phải sống lưu vong, nhưng đại bộ phận người Việt nước ngoài không thể quên quê hương, cội nguồn. Họ có bổn phận với đất nước đang cưu mang họ, đồng thời cũng còn mang trong tâm tư bổn phận thiêng liêng khác: đó là sự tồn vong, thăng trầm hay vinh nhục, của Tổ quốc, của giống nòi. Vì vậy, họ đã sử dụng lá phiếu của mình gây ảnh hưởng đối với Chính quyền đương quốc để binh vực quyền lợi cho thân nhân, đồng đạo cũng như đồng bào của mình trong nước, mà họ cho rằng đang bị khống chế hay áp bức. Đồng bào Việt đã gây ảnh hưởng như thế nào đối với Chính quyền sở tại, và Chính quyền ở đó đáp ứng như thế nào, đó là vấn đề nội bộ của nước đó.

Đảng Cộng sản, kể từ khi mở cửa, sau khi thành trì bách chiến bách thắng của chủ nghĩa xã hội là Liên Xô sụp đổ, rõ ràng đã có thay đổi tư duy, đã không còn xem người Việt tị nạn nước ngoài là “bọn phản quốc chạy theo đế quốc tư bản,”mà bây giờ là một bộ phận không thể chia cắt của dân tộc, nghĩa là cũng được đối xử bình đẳng như đồng bào trong nước, cũng được thừa nhận là còn có nghĩa vụ thiêng liêng đối với Tổ quốc. Cho nên, tại Washington D.C có Tòa Đại sứ Việt Nam, tại California có Tòa Tổng Lãnh sự để nhắc nhở người Việt lưu vong một thời phản quốc đừng quên giống nòi và Tổ Quốc Xã Hội Chủ Nghĩa. Đảng CS Việt Nam còn được phép, nghĩa là một cách hợp pháp, tổ chức những nhóm người Việt chấp nhận Chủ nghĩa Xã hội công khai vận động ủng hộ và ca ngợi Đảng Cộng sản vinh quang, ngay trên đất Mỹ, được phép mở các kênh truyền hình giới thiệu đất nước Việt Nam giàu đẹp dưới tài lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, đỉnh cao của trí tuệ loài người. Đảng và Nhà nước có đủ tất cả phương tiện mà nước Mỹ dành cho để chỉ cho đồng bào Việt kiều thấy đâu là vinh quang và đâu là sỉ nhục của Tổ quốc để tự do lựa chọn. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất không đủ tầm vóc để tuyên truyền như vậy.

Ngay cả trong nước, GHPGVNTN không có bất cứ phương tiện truyền thông nào để xác minh việc làm của mình, mà theo đó đồng bào và Phật tử có quyền tự do phê phán. Thế nhưng, thậm chí khi bộ Ngoại giao công bố trước dư luận thế giới rằng Hòa thượng Huyền Quang và Hòa Thượng Quảng Độ, cùng các Thượng tọa, Đại đức khác bị bắt giữ tại đồn Công an Biên phòng Lương Sơn, vì “có mang giữ tài liệu bí mật quốc gia.” Điều đó không chỉ phạm luật Nhà nước, mà còn phạm giới Nhà tu. Dù bị lăng nhục như vậy, nhưng Giáo Hội không có bất cứ quyền hạn nào để tự xác minh trước sự vu khống và xúc phạm quá đáng đối với các bậc Cao tăng mà Phật tử kính trọng. Nếu Tăng Ni trẻ trong nước có tò mò tìm đọc các thông tin từ trên mạng để tìm hiểu sự thực, thì bị hăm dọa trục xuất khỏi chùa, khỏi tu viện. Nghĩa là trường hợp phạm giới nặng xét theo luật Nhà Chùa. Trong trường hợp như vậy đồng bào và Phật tử nước ngoài có toàn quyền tự do phê phán, và tự thấy cần phải làm gì để trân trọng phẩm giá của những người mà mình tôn kính. Và họ đã sử dụng lá phiếu để yêu cầu Chính quyền sở tại, hoặc tán thành hoặc phản đối hành vi Nhà nước Cộng sản. Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo không đủ tầm vóc để gây ảnh hưởng đó, bởi vì hai vị Đại lão Hòa thượng lãnh đạo tối cao của Giáo Hội bị cách ly, các Thượng tọa thành viên Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo phần lớn bị quản chế, hoặc bị hăm dọa, sách nhiễu.

Thứ hai, các phương tiện truyền thông đại chúng trong nước đã cho thấy rõ ý nghĩa: vấn đề Phật Giáo Việt Nam là vấn đề nội bộ của nước Việt Nam. Điều đó đúng. Nhưng cũng cần phải xác định, trong giới hạn nào thì được gọi là nội bộ. Có thể nói ngay rằng, những vấn đề của các hội đoàn nhân dân khác, như Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Liên hiệp Thanh niên, hay Hội Những người cao tuổi, là những vấn đề nội bộ, hoàn toàn bị chi phổi bởi luật pháp Việt Nam trong thời gian nào đó và trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Vượt ngoài giới hạn thời gian và không gian ấy, những hội đoàn ấy không tồn tại. Ý nghĩa nội bộ lại càng chặt chẽ hơn nữa, khi các hội đoàn nhân dân này là một bộ phận tổ chức quần chúng của Đảng. Ngay cả bản thân của Đảng Cộng sản Việt Nam, vượt qua giới hạn thời gian và không gian, trong chừng mực nhất định, cũng hoàn toàn không tồn tại.

Đối với Phật Giáo, dù được tổ chức dưới hình thái nào, không hoàn toàn lệ thuộc giới hạn thời gian và không gian như vừa nói. Trải qua trên hai mươi lăm thế kỷ truyền bá, trên toàn bộ khu vực Á châu rộng lớn, và ngày nay trên toàn thế giới, là một thực thể xã hội trong cộng đồng nhân loại. Phật Giáo Việt Nam có bản sắc riêng, nhưng không thể nói hoàn toàn khác biệt với Phật Giáo tại các nước khác. Do ảnh hưởng hỗ tương về mọi mặt, kể cả mặt tổ chức, nên Phật Giáo Việt Nam không thể tự tách mình biệt lập với Phật Giáo như một tôn giáo toàn cầu. Có những sắc thái đặc thù của mỗi dân tộc, nhưng không thể phủ nhận tính phổ quát. Với nhận thức như vậy, vấn đề Phật Giáo, Việt Nam hay không phải Việt Nam, đều không hoàn toàn là công việc nội bộ của một nước.

Tất nhiên, khi truyền bá vào đất nước nào, Phật Giáo thích ứng với phong tục, tập quán của nước đó, và cũng phải sinh hoạt trong khuôn khổ luật pháp của nước đó. Nhưng không phải vì vậy mà Phật Giáo hoàn toàn lệ thuộc vào luật pháp của nước đó. Luật pháp của mỗi chế độ đều có chức năng bảo vệ sự tồn tại của chế độ đó. Ngay trong một chế độ, luật pháp cũng phải thay đổi theo thời đại, theo tổ chức quản lý xã hội của chế độ trong từng giai đoạn. Và trên hết, trong lịch sử chính trị, chưa có chế độ chính trị nào tồn tại vĩnh viễn. Điều chắc chắn, chế độ chính trị này có thể sụp đổ, được thay thế bằng chế độ chính trị khác, và do vậy cũng thay đổi luôn nội dung của luật pháp. Trong trường hợp như vậy, Phật Giáo vẫn tồn tại. Đó là sự thực lịch sử. Cho nên, không một chế độ nào có thể buộc chặt Phật Giáo vào sinh mệnh tồn tại của mình, để rồi khi nó sụp đổ, kéo theo cả sự sụp đổ của Phật Giáo. Một vài vị lãnh đạo Phật Giáo Việt Nam do không thấy điều này, mà là điều hiển nhiên trong lời dạy của Phật: “cái gì có sinh thì có diệt”hoặc thấy, biết nhưng không thể làm khác đi được vì nhiều lý do, hoặc có vị cũng thấy, biết nhưng, để cho quyền lợi vật chất chi phối, sẵn sàng tuân theo ý chí của Đảng, bằng bất cứ giá nào phải đưa toàn bộ Phật Giáo Việt Nam vào làm một bộ phận chính trị quần chúng của Đảng để bảo vệ sự tồn tại lâu dài của Đảng. Như thế, thịnh suy của Đảng, thậm chí cả đến sự trong sạch hay thoái hóa của Đảng, cũng kéo theo số phận của Phật Giáo Việt Nam.

Bản thân của Phật Giáo cũng không phải là vĩnh viễn. Đức Phật chưa bao giờ nói giáo pháp của Ngài tồn tại vĩnh viễn, mà những gì được nói thành lời đều là hữu vi do đó phải chịu tác động sinh diệt. Nhưng không phải vì thế mà Phật Giáo mất hay còn tùy thuộc vào số phận của bất cứ tổ chức hay đảng phái chính trị nào.

Chính vì Phật Giáo, trong bản chất, không thể là một bộ phận của Đảng CS Việt Nam, nên vấn đề Phật Giáo không phải là vấn đề nội bộ của nước Việt Nam mà người làm chủ duy nhất hiện tại là Đảng Cộng sản Việt Nam.

Có thể một số sư tăng hay Phật tử chấp nhận lý tưởng xã hội chủ nghĩa, cho rằng chỉ có thể đem lại hạnh phúc cho xã hội loài người khi mà xã hội xã hội chủ nghĩa được xây dựng thành công, trong đó không có giai cấp bóc lột và do đó tôn giáo cũng không còn chức năng lịch sử nữa, nghĩa là không còn tồn tại. Các sư tăng và Phật tử ấy có quyền tự do, và chắc chắn Phật cũng không cấm, họp nhau lại lập thành một Giáo Hội rồi tự nguyện phó thác sinh mạng của Giáo Hội ấy trong tay các đảng viên cộng sản, những chiến sỹ xung kích xây dựng chủ nghĩa xã hội, đấu tranh cho một xã hội không giai cấp và không tôn giáo. Mọi hình thái tổ chức và sinh hoạt của Giáo Hội ấy hoàn toàn tùy thuộc sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản. Từ trên cao, ai được chỉ định làm Pháp chủ, cho đến dưới hạ tầng, ai được chỉ định làm Chánh đại diện Phật Giáo quận huyện; đó hoàn toàn là công việc nội bộ của đảng Cộng sản. Vì đảng là người duy nhất lãnh đạo đất nước, cho nên công việc đảng là công việc của nước.

Ý nghĩa vấn đề Phật Giáo Việt Nam là vấn đề nội bộ của nước Việt Nam cần phải được nhận thức trong bối cảnh như vậy. Tất nhiên, đây là Phật Giáo của đảng cộng sản Việt Nam, một thứ Phật Giáo đang cố hóa thân để trở thành chủ nghĩa xã hội.

Những tăng ni Phật tử khác không chấp nhận điều đó, mặc dù không phủ nhận nhưng cũng không thừa nhận chủ nghĩa xã hội là cứu cánh chân lý, có quyền tư duy và sinh hoạt theo những gì mình học và hiểu từ kinh Phật. Không thể bức ép họ tập họp làm thành một bộ phận của đảng cộng sản. Trong gần ba thập kỷ qua, giết tróc, tử hình, tù đày, lăng nhục, tất cả vẫn không làm sờn lòng, thoái chí, của những người quyết tâm đi thẳng theo con đường mà mình đã lựa chọn.

Trong nhiều trường hợp, để tránh né vấn đề có tính cách tế nhị trên phương diện luật pháp, Nhà nước Việt Nam, mà thường xuyên là bộ Ngoại giao khi phải trả lời dư luận quốc tế về hiện tình của Phật Giáo Việt Nam, trích dẫn lời phát biểu của các lãnh đạo của Giáo Hội của Mặt Trận, luôn luôn khẳng định, người đại diện duy nhất của Phật Giáo Việt Nam hiện tại là Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. Vì được thừa nhận là đại diện hợp pháp duy nhất, nên khi tổ chức này nói: “không có đàn áp tôn giáo tại Việt Nam”, đảng CSVN muốn rằng cả thế giới, trong cũng như ngoài nước, phải hiểu rằng không có đàn áp.

Tuy nhiên, Mặt Trận là tổ chức chính trị quần chúng của Đảng Cộng sản. Thế thì tuyên bố của một tổ chức dưới quyền lãnh đạo của Mặt Trận, dù được gọi là Giáo Hội hay Hiệp hội, cũng vẫn là tuyên bố của Mặt Trận, nghĩa là, chính thức là của đảng CS. Mặt Trận là một tổ chức chính trị của đảng CSVN, thì phạm vi hoạt động cũng chỉ giới hạn trong lãnh thổ Việt Nam mà thôi. Theo hệ luận, trên nguyên tắc và chỉ trên nguyên tắc mà thôi, Giáo Hội nào là thành viên của Mặt Trận, thì phạm vi sinh hoạt của nó cũng không thể vượt ngoài tầm ảnh hưởng của Mặt Trận. Nói là trên nguyên tắc, vì trong thực tế, khi đảng CSVN muốn vươn tầm tay ra ngoài thế giới để tập hợp số người Việt lưu vong trước đây được xem là phản quốc nay được đảng “tha thứ” cho hướng về quê hương để xây dựng tổ quốc xã hội chủ nghĩa, khi ấy đảng cần điều động Giáo Hội của Mặt Trận làm đội quân thứ năm, bấy giờ đảng sẽ cho làm lại căn cước khác: Giáo Hội thuần túy chứ không phải là thành viên của Mặt Trận.

Mặc dù được Nhà nước yểm trợ bằng tất cả mọi phương tiện cần thiết, nhưng không hiểu sao cho đến nay Giáo Hội ấy vẫn chưa hoàn toàn lột xác khỏi Mặt Trận để xứng đáng tầm vóc lãnh đạo đại bộ phận Phật tử Việt Nam hải ngoại, để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà đảng giao phó là tập hợp quần chúng chung quanh đảng.

Ngày nay, cùng chung số phận với đại khối đồng bào, một bộ phận lớn Phật tử Việt Nam tìm đường vượt biên tị nạn CS, định cư trong các quốc gia phát triển hàng đầu của thế giới, khắp từ châu Mỹ, châu Âu, châu Úc. Châu Á là bản địa của Phật Giáo, và sự định cư của Phật tử tại các nước ở đó cũng không phải là ít. Trong bối cảnh đó, bờ cõi Việt Nam không rộng lớn thêm và Nhà nước Việt Nam mặc dù là Nhà nước thống nhất cả hai miền Nam Bắc nhưng phạm vi vẫn không thể vượt qua các đường ranh hải phận và đất liền; nhưng quả thực Phật Giáo Việt Nam đã vượt qua bờ cõi của Tổ quốc.

Vì quốc vận đảo điên nên phải lìa xa quê hương, nhưng người Việt lưu vong đã không quên cội nguồn, trong đó có Phật Giáo. Họ không thể nói: “Tôi là công dân của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam”, nhưng họ có đủ quyền tự do và được các công ước quốc tế bảo vệ để có thể nói: “Tôi là Phật tử Việt Nam.”Vì vậy Nhà nước Việt Nam không có quyền hạn gì với họ. Trái lại, các Thầy và các Sư cô Việt Nam, ở trong hay ngoài nước, theo Giáo Hội này hay theo Giáo Hội kia, đều có thể có ảnh hưởng nào đó trong đời sồng thường nhật của các Phật tử ấy, và họ tự do lựa chọn vị Thầy thích hợp cơ duyên cho đời sống tâm linh của mình. Khi họ nghĩ rằng các Thầy của mình đang bị áp chế, họ tự thấy có bổn phận chiếu cố. Đó là đạo nghĩa của con người, sống và hành động đúng theo lương tâm và nhận thức. Tuy là thân phận lưu vong, nhưng là công dân của quốc gia dân chủ, có đủ quyền lợi và nghĩa vụ như các công dân khác, không phân biệt chủng tộc; họ sử dụng quyền công dân của mình, bày tỏ quan điểm của mình bằng lá phiếu. Kết án các Tăng Ni Phật tử trong nước không khứng chịu chấp nhận làm thành viên của Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam là “biến chất, thoái hóa”; kết án các Phật tử định cư nước ngoài nghĩ đến Thầy tổ của mình bằng lá phiếu dân chủ là bọn “phản động lưu vong”; tố cáo các Chính quyền làm theo điều mà cử tri muốn là “thế lực thù địch”; những vị có tư tưởng phê phán như vậy nên xét lại vấn đề, hãy chiêm nghiệm thực tế để đừng nhầm lẫn lý tưởng phụng sự Chánh pháp với mục tiêu phục vụ thế quyền. Không có cái gì dựa trên sự dối trá mà có thể tồn tại lâu dài.

Nghị Quyết 427 được thông qua tại Viện Dân biểu Hoa Kỳ ở Washington DC, ngày 19/11/2003 lúc 4:27pm (giờ địa phương) với 409 phiếu thuận trên 13 phiếu chống; và Nghị Quyết của Quốc Hội Âu Châu thông qua lúc 17 giờ chiều thứ năm, 20.11.2003, với đa số tuyệt đối của 626 Dân biểu; sự thông qua hai Nghị Quyết tại hai diễn đàn dân chủ có tầm ảnh hưởng quyết định hàng đầu của thế giới đã phản ảnh rất rõ hình ảnh của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong các cộng đồng quốc tế.

Trong hiện tình của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong nước, trong khi hai vị Đại lão Hòa thượng lãnh đạo tối cao bị cách ly, và một số các Thượng tọa trong Tân Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo bị quản chế, nên chỉ có thể tổ chức cuộc hội kiến nhỏ không theo một nghị trình và địa điểm cố định, do đó không thể thảo luận chi tiết mọi khía cạnh của vấn đề. Nhưng cấp thiết, trong giới hạn cho phép, Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo tự thấy có trách nhiệm, dưới hình thức phổ biến Bạch Thư, nêu quan điểm và lập trường của Giáo Hội để Phật tử và đồng bào có cơ sở phán đoán các nguồn thông tin và bình luận của các phương tiện truyền thông đại chúng trong nước liên quan đến hai Nghị Quyết đã đề cập trên.

Phật lịch 2547,
Tháng 11. ngày 22, 2003
TUN Hòa Thượng Viện Trưởng

_______________________________________
[1] Từ Thông điệp Ý Thức Về Nguồn 1971 đến Tuyên Cáo II 1993 của GHPGVNTN – https://uyennguyen.net/2020/05/25/nguyen-tuong-tu-thong-diep-y-thuc-ve-nguon-1971-den-tuyen-cao-ii-1993-cua-ghpgvntn/

[2] Hình Thái Tổ Chức Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam – https://uyennguyen.net/2020/05/25/thich-duc-nhuan-1924-2002-hinh-thai-to-chuc-giao-hoi-phat-giao-viet-nam/

[3] Một Vài Suy Nghĩ Về Hệ Thống Tổ Chức Của GHPGVN – https://uyennguyen.net/2020/05/25/thich-phuoc-an-mot-vai-suy-nghi-ve-he-thong-to-chuc-cua-ghpgvn/

[4] BẠCH THƯ về Nghị Quyết 427 của Quốc Hội Hoa Kỳ (thông qua ngày 11/19/2003) & Nghị Quyết của Quốc Hội Âu Châu (thông qua ngày 20.11.2003)

[5] Nghị quyết 427 của Hạ Nghị Viện Hoa Kỳ – https://uyennguyen.net/2020/05/27/nghi-quyet-427-cua-ha-nghi-vien-hoa-ky-va-nghi-quyet-cua-quoc-hoi-chau-au/

[6] Nghị quyết của Quốc Hội Châu Âu – https://uyennguyen.net/2020/05/27/nghi-quyet-427-cua-ha-nghi-vien-hoa-ky-va-nghi-quyet-cua-quoc-hoi-chau-au/



Chuyên mục:Nhân vật - Sự kiện, Nhân vật, Sự kiện

Thẻ:, ,

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.

%d người thích bài này: